Archive for the ‘Thông Sử Việt theo quan điểm của các Sử gia XHCN’ Category

Chương IX: Phong trào dân tộc ở Việt Nam từ 1925 đến 1930

Tháng Bảy 11, 2009

I- Sự xuất hiện và hoạt động của ba tổ chức cách mạng

Như đã trình bày ở chương trước, do chịu tác động của các trào lưu tư tưởng mới, nhất là tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào dân tộc ở VN sau chiến tranh đã dâng lên sôi nổi và phát triển đến đỉnh cao vào những năm 1925-1926. Từ trong cao trào đấu tranh yêu nước ấy đã dần dần xuất hiện các tổ chức tiến bộ và cách mạng, tiêu biểu nhất là Hội VN cách mạng thanh niên(VN thanh niên cách mạng đồng chí hội), Tân Việt cách mạng đảng và VN quốc dân đảng. Sự ra đời của các tổ chức cách mạng này đã đánh dấu bước tiến mới của phong trào dân tộc, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy công cuộc giải phóng đất nước tiếp tục tiến lên.

1- Hội Việt Nam cách mạng thanh niên

Sự xuất hiện của HVNCMTN gắn liền với các hoạt động và công lao của lãnh tụ NAQ. Ngay từ 1923, trước khi rời Pháp đi Liên Xô, trong một bức thư gửi các bạn cùng hoạt động, NAQ đã nói rõ ý định của mình là: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ rang: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Chính vì vậy, sau một năm rưỡi học tập và hoạt động ở Liên Xô, tháng 11/1924, NAQ quyết định trở về Quảng Châu-Trung Quốc-nơi đang có rất đông người VN yêu nước hoạt động, để xúc tiến các công việc chuẩn bị cho sự ra đời của chính đảng Mác-xít ở VN.

Sau khi đến Quảng Châu, với tư cách là đặc phái viên của Quốc tế cộng sản, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam, NAQ đã bắt đầu quan tâm tìm hiểu tình hình hoạt động của những người VN yêu nước đang sinh sống tại đây, đặc biệt là đã gặp nhóm thanh niên yêu nước trong tổ chức Tâm Tâm Xã. Trong thư thư gửi Đoàn Chủ tịch QTCS đề ngày 18/12/1924, NAQ báo cáo: “Tôi đến Quảng Châu vào giữa tháng 12. Tôi đã gặp tại đây vài ba nhà cách mạng quốc gia VN, trong số đó có một người đã xa rời xứ sở từ 20 năm nay…

Mục đích của ông này là trả thù cho nước nhà đã bị Pháp tàn sát. Ông ta không hiểu chính trị, và lại càng không hiểu việc tổ chức quần chúng. Trong cuộc thảo luận, tôi đã giải thích cho ông ta hiểu sự cần thiết của tổ chức và sự vô ích của những hành động không có cơ sở. Ông ta đã đưa cho tôi một bản danh sách của 14 người VN đã cùng ông ta hoạt động bấy lâu”. Trong số 14 người mà Phan Bội Châu giới thiệu, có một số người đã trở thành hội viên của Tâm Tâm Xã-một tổ chức yêu nước cấp tiến vừa được thành lập năm 1923 tại Quảng Châu.

Sau khi tìm hiểu tình hình thực tế, NAQ đã lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm Tâm Xã, tổ chức tuyên truyền giác ngộ họ, để trên cơ sở đó lập ra nhóm Cộng Sản Đoàn vào tháng 2/1925. Trong Báo cáo gửi Đoàn Chủ tích QTCS, đề ngày 19/2/1925, NAQ đã trình bày khá cụ thể các công việc đã làm được: “Chúng tôi đã lập một nhóm bí mật gồm 9 hội viên, trong đó có 2 người đã được phái về nước. Ba người ở tiền tuyến(trong quân đội Tôn Dật Tiên), một người đang đi công cán quân sự(cho Quốc Dân Đảng). Trong số hội viên đó, có 5 người đã là đảng viên dự bị của Đảng Cộng sản”.

Nhóm bí mật đó chính là Cộng Sản đoàn gồm có Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lưu Quốc Long, Trương Văn Lĩnh, Lê Quảng Đạt, Lâm Đức Thụ.

Dựa trên nhóm cộng sản này, tháng 6/1925, NAQ thành lập một tổ chức cách mạng có tính chất quần chúng rộng hơn là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Tháng 7 năm đó, cùng với một số nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônêxia…, NAQ còn sáng lập ra tổ chức Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông có quan hệ chặt chẽ với Hội VNCMTN. Sau khi ra đời, Hội đã công bố Chương trình và Điều lệ, thể hiện rõ lập trường chính trị cùng nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Hội. Bản Chương trình ghi rõ:

I-                  Tên Hội:

Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.

II-               Mục đích

Hi sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản).

III-            Chương trình

a)     Lựa chọn người giác ngộ, huấn luyện họ, tổ chức họ vào Hội.

b)    Cử những hội viên đã được đào tạo vào trong nhân dân để tuyên truyền điều phải và tổ chức các đoàn thể như công hội, nông hội, hội học sinh, hội phụ nữ.v.v..

c)     Gặp dịp tốt nào thì hãy huy động lực lượng của những đoàn thể quốc gia để đập tan bọn Pháp và lấy lại chính quyền.

d)    Thành lập Chính phủ nhân dân gồm đại biểu của các đoàn thể công nhân, nông dân và binh lính.

e)     Áp dụng những nguyên tắc tân kinh tế chính sách để thúc đẩy sự phát triển các cơ quan sản xuất trong nước, bãi bỏ tư bản tư nhân và sự giao lưu những tài nguyên quốc gia.

f)      Đoàn kết với những giai cấp vô sản của tất cả các nước và thành lập xã hội cộng sản.

Điều kiện gia nhập Hội đã được ghi rõ trong bản Điều lệ là: “Người Việt Nam nào từ 17 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, tán thành mục đích, chương trình và kỷ luật của Hội và được hai hội viên giới thiệu, thì được gia nhập Hội sau khi được chi bộ đồng ý”.

Về tổ chức gồm có 5 cấp: Tổng bộ, Xứ (Kì) bộ, Tỉnh bộ, Huyện bộ và Chi bộ. Mỗi chi bộ gồm khoảng 10 hội viên; nếu quá số lượng đó thì lập ra chi bộ khác.

Tóm lại, đường lối chính trị của Hội VNCMTN thể hiện những nội dung chính sau đây:

1)     Thực hiện cách mạng GPDT rồi sau đó tiến hành cách mạng XHCN.

2)     Thành lập chính phủ công nông binh, thực hiện chính sách phát triển sản xuất, xoá bỏ tư bản, xây dựng xã hội cộng sản ở VN và trên thế giới. Trước mắt, sau khi thành lập, chính phủ công nông binh sẽ thực hiện nhiệm vụ chia ruộng cho dân cày, huỷ bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lí khác; thực hiện ngày làm 8 giờ cho công nhân; thực hiện quyền tự do dân chủ, quyền nam nữ bình đẳng…

3)     Đoàn kết với giai cấp vô sản và phong trào cách mạng thế giới.

Như vậy, mặc dù Hội VNCMTN chưa phải là một đảng cộng sản, nhưng đường lối chính trị, chương trình hành động và điều lệ của Hội đã in đậm và thể hiện rõ quan điểm, lập trường cách mạng của giai cấp công nhân.

Về thành phần xã hội, lúc đầu các hội viên Thanh niên bao gồm “90% là trí thức tiểu tư sản, chỉ có 10% là công nông”, sau này tuy các thành phần công nông có tăng lên, nhưng lực lượng trí thức vẫn chiếm tới 40%.

Sau khi thành lập, Hội VNCMTN phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang Quảng Châu(TQ) để đào tạo, huấn luyện và bồi dưỡng về chính trị, tổ chức. Trong khoảng 1924-1927, Hội đã tổ chức được trên 10 lớp huấn luyện, đào tạo được 75 hội viên. Mỗi lớp đào tạo huấn luyện được tiến hành trong thời gian từ 2-3 tháng. Giảng viên chính là NAQ, ngoài ra còn có Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn là giáo viên phụ giảng.

Nội dung chương trình học tập ở các lớp huấn luyện khá rộng, bao gồm cả kiến thức lí luận và thực tiễn cách mạng. Học viên được nghiên cứu về tình hình quốc tế, lịch sử tiến hoá nhân loại, các giai đoạn phát triển của CNTB, phong trào GPDT ở các nước, các phương pháp cách mạng của Tôn Dật Tiên, về Cách mạng tháng Mười Nga. Tại các khoá học, học viên còn được nghe giới thiệu về lịch sử các tổ chức Quốc tế I, II và III, cũng như về các tổ chức quần chúng của Quốc tế như Thanh niên quốc tế, Nông dân quốc tế, Công hội đỏ quốc tế. Phần cuối cùng của chương trình huấn luyện là các phương pháp và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn trong việc vận động và tổ chức xây dựng nông hội, công hội, hợp tác xã…

Ngoài việc mở các lớp huấn luyện ở Quảng Châu, dưới sự chỉ đạo của NAQ, Ban lãnh đạo Hội còn cử người đi học trường Đại học Cộng sản Phương Đông(Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố(của Quốc dân đảng Trung Quốc). Trong số người được giới thiệu đi học các trường đào tạo nước ngoài có Trần Phú, Lê Hồng Phong, Bùi Công Trừng, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn…

Kết thúc các lớp đào tạo, phần lớn cán bộ đều được đưa về nước hoạt động trong công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị… để tuyên truyền vận động và xây dựng các cơ sở của Hội VNCMTN.

Cùng với việc đào tạo đội ngũ cán bộ Mác-xít đầu tiên cho cách mạng VN, Hội VNCMTN còn cho xuất bản tờ báo Thanh Niên làm công cụ truyền bá tư tưởng Mác-Lênin và là cơ quan phát ngôn của Hội. Báo Thanh niên in bằng chữ Quốc ngữ, trên giấy sáp, riêng tên tờ báo được in bằng cả chữ Hán và chữ Việt. Ban biên tập ngoài NAQ là chủ bút, còn có Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu… Số báo đầu tiên xuất bản vào ngày 21/6/1925. Từ đó cho đến tháng 2/1930, báo Thanh niên ra được 208 số. Trong 88 số đầu, tờ báo tập trung giáo dục lòng yêu nước, khơi sâu ý chí căm thù của nhân dân ta đối với bọn đế quốc và phong kiến tay sai, đồng thời giới thiệu Cách mạng tháng Mười Nga và nước Nga Xô viết. Từ số 89 trở đi, báo Thanh niên bắt đầu nêu lên những nguyên lí cơ bản về xây dựng đảng kiểu mới, về nhu cầu phải thành lập chính đảng cộng sản ở nước ta, về phương hướng phát triển của cuộc vận động GPDT Việt Nam.

Bằng nhiều con đường, báo Thanh niên đã được bí mật chuyển về trong nước và được các tầng lớp nhân dân yêu nước hăng hái tìm đọc, có bài báo còn được chuyền nhau chép đi chép lại nhiều lần.

Nhờ đó, các tư tưởng cách mạng được truyền bá mạnh mẽ vào trong nhân dân, góp phần quan trọng chuẩn bị về mặt tư tưởng, chính trị cho sự ra đời của chính đảng cộng sản ở nước ta.

Để đẩy mạnh công cuộc truyền bá tư tưởng Mác-Lênin tiến tới thành lập Đảng, đầu năm 1927 Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc vị áp bức ở Á Đông đã cho xuất bản cuốn sách Đường Kách Mệnh, rồi chuyển về trong nước. Cuốn sách chủ yếu tập hợp các bài giảng của lãnh tụ NAQ trong các lớp huấn luyện chính trị của Hội VNCMTN ở Quảng Châu. Nếu trong tác phẩm Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp, NAQ đã bóc trần và tố cáo những hành động xấu xa, tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp ở thuộc địa, trong cuốn sách này NAQ lại tập trung phác hoạ và chỉ ra phương hướng đấu tranh để GPDT và nhân dân thoát khỏi ách nô lệ. Trên cơ sở phân tích tình hình và mâu thuẫn của xã hội VN, Đường Kách Mệnh chỉ rõ cách mạng VN trước hết phải làm “dân tộc kách mệnh” nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập, tự do, đồng thời tiến lên làm “giai cấp kách mệnh” đánh đuổi tư bản nhằm giải phóng quần chúng lao động.

Cách mạng muốn giành được thắng lợi phải coi “công nông là gốc” của cách mạng, học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ đều là bầu bạn của cách mạng. Đường Kách Mệnh còn chỉ rõ nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng là sự lãnh đạo của đảng Mác-xít. Đảng đó phải theo chủ nghĩa Mác-Lênin vì: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”. Đồng thời, tác phẩm Đường Kách Mệnh còn nhấn mạnh tầm quan trọng của nhiệm vụ đoàn kết quốc tế giữa cách mạng VN với giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Có thể nói “tác phẩm Đường Kách Mệnh của Nguyễn Ái Quốc đã đóng vai trò như cuốn Làm Gì? của Lênin trong phong trào cách mạng Nga” hồi đầu thế kỷ XX.

Từ đầu năm 1926, Hội VNCMTN bắt đầu phát triển cơ sở ở trong nước. Nhờ có sự hoạt động tích cực của các hội viên nên đầu năm 1927 ở nhiều địa phương đã xây dựng được các cơ sở của Hội. Trên cơ sở đó, các Kì bộ, rồi Tỉnh bộ lần lượt được thành lập.

Kì bộ Trung kì được thành lập tại Vinh(2/1927) gồm Vương Thúc Oánh, Lê Hữu Lập, Nguyễn Sĩ Sách(làm Bí thư).

Tháng 3/1927, tại Hà Nội, Kì bộ Bắc kì được thành lập gồm Nguyễn Danh Đới, Nguyễn Công Thu, Mai Lập Đôn, do Trần Văn Cung làm Bí thư.

Tại Sài Gòn, Kì bộ Nam kì được thành lập với sự tham gia của Ngô Thiêm, Nguyễn Văn Lợi, do Phan Trọng Bình làm Bí thư.

Cùng với việc phát triển hệ thống tổ chức ở trong nước, Hội VNCMTN còn chú trọng xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm(Thái Lan) để hình thành đường dây liên lạc với trong nước. Năm 1926, chi bộ Thanh niên đầu tiên đã được thành lập tại Bạn Thầm(tỉnh Phì Chịt, miền Trung Thái Lan). Tiếp đó, Hội còn thành lập thêm các chi bộ khác ở tỉnh U Đon, Na Khon… Để mở rộng các hoạt động tuyên truyền vận động trong Việt kiều ở Thái Lan, Hội VNCMTN đã cho xuất bản tờ báo Đồng Thanh(sau đổi thành báo Thân Ái).

Do đại bộ phận hội viên Thanh niên đều xuất thân từ thành phần trí thức tiểu tư sản, nên từ cuối năm 1928 Hội VNCMTN chủ trương tổ chức phong trào “vô sản hoá”, tích cực đưa các hội viên vào các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, nông thôn để rèn luyện học tập nâng cao lập trường giai cấp công nhân, đồng thời trực tiếp tuyên truyền giác ngộ và tổ chức quần chúng đấu tranh. Nhờ vậy, phong trào công nhân và phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân ngày càng phát triển rầm rộ, sôi nổi.

Đến năm 1929, Hội VNCMTN đã xây dựng cơ sở ở khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Số hội viên đã lên tới khoảng 1.500 người. Thông qua việc tăng cường phát triển tổ chức, mở rộng địa bàn hoạt động của các hội viên, Hội VNCMTN đã góp phần truyền bá tư tưởng Mác-Lênin, phổ biến chủ trương, đường lối của Hội trong nhân dân, tích cực thúc đẩy phong trào cách mạng VN chuyển nhanh theo xu hướng cách mạng vô sản. Hội VNCMTN đã đóng vai trò tích cực chuẩn bị tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập một Đảng Cộng sản chân chính ở VN.

2- Tân Việt cách mạng đảng

Khác với Hội VNCMTN, Tân Việt cách mạng đảng(TVCMĐ)là một tổ chức yêu nước đã trải qua nhiều thay đổi, cải tổ.

Tiền thân của TVCMĐ là Hội Phục Việt thành lập 14/7/1925 tại Vinh(Nghệ An) do hai nhóm chính trị phạm ở Trung kì tiêu biểu như: Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên…, và các sinh viên sư phạm Hà Nội như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai… Chương trình hành động của Hội Phục Việt có 3 điểm: (1)- Nghiên cứu tình hình chính trị trong nước để quyết định nên bạo động hay hoà bình; (2)- Tìm cách lien lạc với các nhà cách mạng ở Tàu và Xiêm xem chủ trương của họ thế nào; (3)- Mộ thêm đồng chí mới. Sau khi ra đời, Hội Phục Việt tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu. Chi hội Phục Việt ở Bắc kì do Tôn Quang Phiệt phụ trách đã in và rải truyền đơn kêu gọi các tầng lớp nhân dân đấu tranh ủng hộ nhà chí sĩ họ Phan. Hoạt động yêu nước của Hội Phục Việt đã làm cho thực dân Pháp theo dõi và tìm cách phá hoại. Trước tình hình đó, Hội Phục Việt đã đổi tên thành Hưng Nam năm 1926. Đến năm 1927, Hội lại đổi tên thành Việt Nam cách mạng đảng, rồi Việt Nam cách mạng đồng chí hội. Cuối cùng, tại đại hội lần thứ nhất tại Huế(7/1928), Hội chính thức mang tên Tân Việt cách mạng đảng.

Thời kì đầu mới thành lập, TVCMĐ còn là một tổ chức yêu nước, chưa có lập trường giai cấp rõ rệt, cho rằng chủ nghĩa cộng sản quá cao và chủ nghĩa “Tam Dân” của Quốc dân đảng quá thấp. Trong quá trình tồn tại, Tân Việt đã nhiều lần cử người sang Quảng Châu lien lạc và bàn kế hoạch hợp nhất với tổ chức Hội VNCMTN, và ngược lại Tổng bộ Thanh niên cũng đã có lần phái người về nước thảo luận việc hợp nhất với Tân Việt, nhưng không đạt được kết quả. Nguyên nhân là do hai tổ chức có ý kiến khác nhau trong việc đánh giá vai trò của mỗi bên, cũng như xác định quyền lãnh đạo của tổ chức sẽ hợp nhất. Mặc dù vậy, qua những lần tiếp xúc, đặc biệt là nhờ các hoạt động của các hội viên Hội VNCMTN, lập trường chính trị của Tân Việt dần dần thay đổi và chuyển mạnh sang khuynh hướng cách mạng vô sản. Từ sau Đại hội I (1928), Tân Việt thực sự trở thành một tổ chức cách mạng mang tính chất XHCN.

Về tư tưởng chính trị, TVCMĐ xác định: “Liên hợp cả các đồng chí trong ngoài, trong thì dẫn đạo công nông binh, quần chúng, ngoài thì lien lạc với các dân tộc bị áp bức để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa đặng kiến thiết một xã hội bình đẳng bác ái mới”. Tân Việt còn đề ra Chương Trình Hành Động và các quy định chặt chẽ về tổ chức, đảng viên. Theo Chương Trình Hành Động được soạn thảo năm 1928 thì Tân Việt sẽ phải trải qua hai thời kì. Đó là Thời Kỳ Phá Hoại tức là dùng vũ lực đánh đổ ách thống trị thực dân phong kiến, giành lấy chính quyền; sau đó chuyển qua Thời Kỳ Quá Độ thực hiện chuyên chính vô sản, quốc hữu hoá các ngành kinh tế, thực thi quyền bình đẳng cho mọi giai tầng xã hội, mọi lớp tuổi khác nhau.

Về thành phần xã hội, Tân Việt chủ yếu gồm các phần tử thanh niên trí thức, học sinh, công chức, tiểu thương. Sau này, Đảng có chú ý phát triển đến các thành phần công nông, nhưng số hội viên phần lớn vẫn là trí thức tiểu tư sản. Ngay trong Điều Lệ năm 1928 cũng quy định rõ rang đảng viên phải là người có học, “phải biết đọc, biết viết hoặc Quốc ngữ, hoặc chữ Pháp, chữ Hán và quyết tâm phấn đấu trong hang ngũ của Đảng”.

Nắm quyền lãnh đạo các cơ quan Tổng bộ chủ yếu thuộc giới giáo viên, sinh viên, trí thức như Trần Mộng Bạch, Đào Duy Anh, Phan Kiêm Huy, Tôn Quang Phiệt, Ngô Đức Diễn.

Hệ thống tổ chức của Tân Việt bao gồm 6 cấp: Tổng bộ, Kì bộ, Liên tỉnh bộ, Tỉnh bộ, Đại bộ và Tiểu tổ ở cơ sở. Tổ chức cơ sở của Tân Việt xây dựng theo nguyên tắc “Tam tam chế”, tức là mỗi tiểu tổ chỉ có 3 người, và 3 Tiểu tổ hợp thành 1 Đại tổ. Tân Việt có 3 Kì bộ và 10 Liên tỉnh bộ, đều được gọi theo bí danh riêng: Bắc kì là “Nhân kì”, Trung kì là “Trí kì”, Nam kì là “Dũng kì”.

Trên tất cả các khu vực Bắc, Trung, Nam, TVCMĐ đều có cơ sở của mình, nhưng địa bàn hoạt động chính là ở các tỉnh miền Trung, chủ yếu thuộc hai tỉnh Nghệ An-Hà Tĩnh.

Tại địa bàn trung tâm Nghệ-Tĩnh, từ cuối năm 1928, các Tiểu tổ, Đại tổ Tân Việt đã phát triển rộng khắp trong các nhà máy, xí nghiệp, đường phố, và cả các vùng nông thôn. Số lượng đảng viên lên tới 612 người. Bên cạnh việc bồi dưỡng, kết nạp đảng viên mới, Tân Việt còn chú ý xây dựng các tổ chức quần chúng, các cơ sở cảm tình của Đảng. Ở khu vực Vinh-Bến Thuỷ, Tân Việt đã lập ra các Nhóm may quần áo của công nhân nhà máy Tràng Thi, Hưng Nghiệp hội xã, hiệu sách “Tam kì thư quán”. Các cơ sở này vừa làm nơi gặp gỡ, tuyên truyền giác ngộ đảng viên, đồng thời góp phần cung cấp nguồn tài chính cho Đảng. Ở Trường Quốc học Vinh, Phan Kiêm Huy đã vận động và cùng một số đảng viên khác thành lập Hội Sinh Đoàn để tập hợp các giáo viên và học sinh yêu nước. Tại các huyện Hưng Nguyên, Anh Sơn, Nghi Lộc, Yên Thành, Thanh Chương, Can Lộc…, đều xây dựng các Tiểu tổ, Đại tổ và các tổ chức quần chúng của Đảng.

Trong quá trình tồn tại, ngoài công tác giáo dục, huấn luyện đảng viên, TVCMĐ còn tiến hành nhiều hoạt động như lập các lớp học ban đêm, phổ biến các sách báo Mác-xít…, góp phần quan trọng vào việc khơi dậy long yêu nước, truyền bá tư tưởng cách mạng trong các tầng lớp nhân dân. Một số cuộc đấu tranh của học sinh, tiểu thương và công nhân do Tân Việt tổ chức và lãnh đạo đã diễn ra trong thời gian này. Tiêu biểu là các cuộc đình công của công nhân nhà máy diêm Bến Thuỷ(Vinh) ngày 11/4/1928; cuộc bãi công của công nhân đường sắt ở Biên Hoà-Sài Gòn tháng 9/1929; đấu tranh của nông dân làng Yên Dũng(Vinh) chống bọn Pháp lấy 300 mẫu đất ở gần Bến Thuỷ để xây dựng sân bay. Trong nhiều trường học ở Vinh, tổ chức Tân Việt đã vận động học sinh đấu tranh với các yêu sách cụ thể như:

–         Bỏ phạt

–         Học sinh được ra ngoài kí túc xá vào chiều thứ bảy và ngày chủ nhật

–         Bỏ thói đánh đập và miệt thị học sinh, giáo viên người Việt

–         Cải thiện điều kiện sinh hoạt và ăn uống trong kí túc xá.

Từ cuối năm 1928 đầu năm 1929, học tập Hội VNCMTN, TVCMĐ cũng phát động phong trào “vô sản hoá”, đưa các đảng viên vào hoạt động trong nhà máy, xí nghiệp, trường học để nâng cao lập trường giai cấp công nhân, đồng thời tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho các tầng lớp nhân dân, xây dựng cơ sở của Đảng…

Do tác động của tư tưởng Mác-Lênin, nhiều đảng viên Tân Việt đã chuyển sang Hội VNCMTN. Nội bộ đảng Tân Việt ngày càng phân hoá sâu sắc thành hai khuynh hướng rõ rệt. Một khuynh hướng nằm trong những người lãnh đạo Tổng bộ chủ trương đứng trên lập trường quốc gia tư sản. Còn số đông đảng viên Tân Việt, nhất là những thanh niên trẻ tuổi giàu nhiệt huyết, thì ngả hẳn sang khuynh hướng cộng sản.

Vào năm 1929, để chống lại khuynh hướng cộng sản trong số đông đảng viên, ban lãnh đạo Tổng bộ đã công bố đề án thành lập “Khối quốc gia” và gửi cho các cấp bộ Đảng Tân Việt. Theo bản đề án, ở VN, lúc này chưa có giai cấp công nhân, do đó không có cơ sở để chủ nghĩa cộng sản tồn tại và phát triển. Trước tình hình đó, những đảng viên tích cực nhất của Đảng đã họp lại và đi tới quyết định li khai khỏi Tổng bộ Tân Việt, chuẩn bị thành lập một đảng cộng sản lấy tên là Đông Dương Cộng Sản liên đoàn. Tiếp đó, tháng 9/1929, một cuộc hội nghị của những đảng viên tích cực của Đảng đã được tổ chức tại Nam kì, nhằm bàn bạc và chuẩn bị các điều kiện cần thiết tiến tới tổ chức đại hội thành lập Đông Dương Cộng Sản lien đoàn. Hội nghị đã thông qua tờ Tuyên Đạt nói rõ lí do thành lập Đông Dương Cộng sản lien đoàn là: “Hiện thời trào lưu cộng sản đang dâng cao khắp toàn cầu… Ở Đông Dương xu hướng cộng sản đang đâm chồi, nảy lộc, nhất là từ ba bốn năm nay, Hội VNCMTN và TVCMĐ ra đời thì ảnh hưởng trong đám lao khổ xứ Đông Dương càng hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng họ khỏi cảnh lầm than, nô lệ, mới đem lại độc lập hoàn toàn cho xứ Đông Dương, xoá bỏ chế độ người bóc lột người…

… Cho nên Hội VNCMTN… đã tách ra lập nên hai bộ phận cộng sản là Đông Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản chi bộ, cùng tiến hành vận động cộng sản theo chương trình của Đệ tam Quốc tế…

Do tình hình trên đây, những người giác ngộ cộng sản chân chính trong TVCMĐ trịnh trọng tuyên bố cùng toàn thể đảng viên TVCMĐ, toàn thể thợ thuyền, dân cày và lao khổ biết rằng chúng tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương cộng sản liên đoàn.

Sự chuyển biến của số đông đảng viên Tân Việt theo chủ nghĩa cộng sản là phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của phong trào yêu nước lúc đó. Nó góp phần làm suy yếu và đánh bại chủ nghĩa cải lương và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đồng thời tăng cường thêm sức mạnh cho giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

3- Việt Nam quốc dân đảng

Nếu Hội VNCMTN là tổ chức đại diện cho khuynh hướng cách mạng vô sản thì VNQD đảng là tổ chức tiêu biểu nhất của khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản ở VN trong những năm 20.

Bộ phận hạt nhân đầu tiên của VNQD đảng là nhóm Nam Đồng thư xã do 2 anh em nhà giáo Phạm Tuấn TàiPhạm Tuấn Lâm thành lập cuối năm 1926 tại Hà Nội. Với tư cách là 1 cơ sở xuất bản tiến bộ, Nam Đồng thư xã chuyên in ấn các sách báo yêu nước, như: Gương phục quốc; Gương thành bại; Gương thiếu niên; Trưng nữ vương… nhằm khích lệ tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc trong nhân dân. Vì vậy, Nam Đồng thư xã mau chóng trở thành nơi thu hút và tụ họp của một số trí thức, thanh niên, sinh viên hồi đó, trong đó có Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Hồ Văn Mịch, Hoàng Phạm Trân(Nhượng Tống)… Khác với Nhượng Tống chủ trương “hoà bình cách mạng”, Nguyễn Thái Học và một số người khác như Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm kiên quyết ủng hộ tư tưởng bạo lực cách mạng, dùng “sắt và máu để giành lại độc lập dân tộc”. Sau nhiều lần thuyết phục, trao đổi, nhóm tán thành bạo lực đã chiếm đa số trong Nam Đồng thư xã. Trên cơ sở đó, ngày 25/12/1927, một tổ chức cách mạng đã được thành lập ở Hà Nội, lấy tên là VNQD đảng. Sau này VNQD đảng còn tập hợp thêm một số nhóm khác có cùng quan điểm ở các địa phương như nhóm Hoàng Văn Tùng ở Thanh Hoá, nhóm Việt Nam dân quốc của Nguyễn Khắc Nhu ở Bắc Ninh, Bắc Giang.

Bị chi phối bởi các điều kiện giai cấp và xã hội, VNQD đảng không đề ra được một đường lối chính trị độc lập rõ ràng. Trong mấy năm tồn tại, tổ chức này đã nhiều lần thay đổi chính cương và điều lệ. Khi mới thành lập, trong bản Điều lệ được thông qua tại hội nghị thành lập, VNQD đảng ghi rõ mục đích: “Trước tiên làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng thế giới”(tức là trước tiên đánh đổ đế quốc chủ nghĩa trong nước, sau giúp các nước khác đánh đổ đế quốc giành độc lập dân tộc). Đến bản Điều lệ soạn thảo tháng 7/1928 lại xác định tôn chỉ của Đảng là “chủ nghĩa xã hội dân chủ”, Đảng có mục đích đoàn kết cả nam lẫn nữ để: “Đẩy mạnh cách mạng dân tộc; xây dựng nền dân chủ trực tiếp và giúp đỡ các dân tộc bị áp bức”. Tiếp đó trong bản Điều lệ sửa đổi công bố tháng 2/1929, VNQD đảng lại thay bằng 3 nguyên tắc tư tưởng của cách mạng tư sản Pháp 1789: “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Mục đích của Đảng là tiến hành “cách mạng dân tộc, cách mạng chính trị và cách mạng xã hội”. Cuộc cách mạng này sẽ diễn ra qua 4 thời kỳ: Thời kỳ bí mật(tập hợp lực lượng); thời kỳ dự bị(chuẩn bị các điều kiện vật chất cũng như lương thực, vũ khí đạn dược cho cuộc khởi nghĩa vũ trang); thời kỳ công khai(đánh đuổi giặc Pháp, lật đổ ngôi vua); thời kỳ kiến thiết(thành lập chính phủ cộng hoà, thực hiện các quyền tự do, dân chủ). Cho tới thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đêm trước của bạo động Yên Bái, VNQD đảng lại mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn(một nhà dân chủ tư sản tiêu biểu của Trung Quốc đầu thế kỷ), nhưng những nguyên tắc và chính sách có tính cách mạng lại bị loại bỏ. Cụ thể, VNQD đảng chỉ ủng hộ chủ trương “cách mạng dân tộc” và “thiết lập dân quyền”, còn khẩu hiệu “bình quân địa quyền” và các chính sách “liên Nga, liên Cộng, phù trợ công nông”(tức đoàn kết với nước Nga xô viết, liên minh với Đảng cộng sản và ủng hộ giúp đỡ công nông) lại không được nhắc tới.

Rõ ràng, cho đến tận cuối năm 1929, VNQD đảng vẫn không có một cương lĩnh thể hiện rõ mục đích và lập trường chính trị của mình. Đúng như Trần Dân Tiên nhận xét: “Nó muốn một nước cộng hoà, nhưng là thứ cộng hoà nào? Sẽ cai trị quốc gia như thế nào? Với phương pháp gì người ta sẽ xây dựng lại kinh tế quốc gia? Làm thế nào để nâng cao mức sống của những tầng lớp lao động, thợ thuyền, nông dân, trí thức? Về những điều này, VNQD đảng chưa có chương trình rõ rệt”.

Thành phần xã hội của VNQD đảng chủ yếu gồm trí thức, học sinh, giáo viên, công chức, những người làm nghề tự do, một số thân hào thân sĩ ở nông thôn. Đảng còn có nhiều đảng viên là binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp. Bản cáo trạng của Hội đồng đề hình xét xử vụ án Badanh(Bazin) năm 1929 đã thừa nhận: “Các giáo viên, các binh sĩ là hai cái cột chống đỡ mái nhà Đông Dương, Quốc dân Đảng đã làm lay chuyển hai cây cột ấy”.

Về mặt tổ chức, VNQD đảng có bốn cấp: Tổng bộ, Kỳ bộ, Tỉnh bộ, Chi bộ. Mỗi Chi bộ không quá 19 người, Điều lệ của Đảng quy định các đảng viên trong một xóm, một làng, một tổng, một huyện, một khu phố hay một thành phố đều có thể hợp thành một chi bộ. Các hoạt động của Chi bộ do cơ quan Tỉnh bộ trực tiếp chỉ đạo và điều hành.

Lãnh đạo Tổng bộ là một số nhân vật có uy tín như Nguyễn Thái Học(Chủ tịch Đảng), Nguyễn Thế Nghiệp(Phó Chủ tịch Đảng). Ngoài ra còn có các uỷ viên khác như Nhượng Tống, Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Hữu Đạt. Cơ quan Tổng bộ gồm có các ban tuyên huấn, ngoại giao, trinh sát, kinh tài, tổ chức, ám sát.

Trong hơn 2 năm tồn tại, VNQD đảng còn chủ trương thành lập các tổ chức quần chúng bao gồm Đoàn Phụ nữ, Đoàn Công nhân, Đoàn Nông dân, Đoàn Học sinh và các binh đoàn quân sự. Các hội viên này là lực lượng cảm tình của Đảng, có nhiệm vụ hỗ trợ, phối hợp với các đảng viên trong đấu tranh giành chính quyền khi có thời cơ.

Hoạt động chủ yếu của VNQD đảng là xây dựng lực lượng và phát triển cơ sở của Đảng ở các địa phương. Đầu năm 1928, VNQD đảng bắt đầu thực hiện việc hợp nhất với các nhóm “Việt Nam quốc dân” của Nguyễn Khắc Nhu ở Bắc Ninh – Bắc Giang, nhóm Hoàng Văn Tùng ở Thanh Hoá. Cũng thời gian này, nhờ hoạt động của những nhà lãnh đạo Tổng bộ như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu mà một số chi bộ VNQD đảng đã lần lượt được thành lập ở Vĩnh Yên, Phú Thọ, Sơn Tây(Hà Tây). Tiếp đó, cuối năm 1928 đầu 1929, nhiều cơ sở của VNQD đảng đã được xây dựng ở Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hải Phòng… Tính đến đầu năm 1929, riêng ở Bắc Kỳ đã có 120 Chi bộ với khoảng 1.500 đảng viên, trong đó có 120 người là cai, đội và lính khố đỏ.

Trong mấy năm tồn tại, VNQD đảng có chủ trương liên kết, phối hợp hành động với các tổ chức yêu nước và cách mạng trong nước. Ngay từ giữa năm 1928, Đảng đã cử người đi liên lạc và bàn việc hợp nhất với cả Tân Việt cách mạng đảng và Hội VNCMTN, nhưng đều không đạt kết quả. Rút cục, “trong thực tế, VNQD đảng vẫn bị cô lập với tất cả các nhóm cách mạng khác ở Đông Dương và cho đến năm 1930 – như Chánh mật thám Đông Dương Macti(Luois Marty)nhận xét – không quan hệ với những phần tử An Nam có xu hướng quốc gia đặt ở xứ ngoài”.

Khác với tổ chức Hội VNCMTN và TVCMĐ, VNQD đảng ít chú trọng tới công tác tuyên truyền và huấn luyện đảng viên. Năm 1928, VNQD đảng quyết định ra báo Hồn Cách Mạng làm cơ quan ngôn luận. Nhưng mãi đến tháng 2/1929 tờ báo mới phát hành được 1 số thì bị lộ nên phải đóng cửa. Nói chung, Đảng không có 1 cơ quan ngôn luận, hoặc tài liệu, văn kiện chính thức nào để giải thích tôn chỉ mục đích của Đảng và để tuyên truyền huấn luyện đảng viên. Đây cũng là một nguyên nhân khiến cho công tác phát triển Đảng tiến hành tuỳ tiện, thiếu cơ sở và chuẩn mực, đồng thời gây nên tình trạng mơ hồ về lập trường chính trị của Đảng.

Do không có lý luận cách mạng làm cơ sở cho đường lối và phương pháp đấu tranh nên VNQD đảng thiên về các hoạt động ám sát, khủng bố cá nhân. Một số vụ tống tiền các nhà giàu ở Bắc Ninh – Bắc Giang, Nam Định vào đầu năm 1929 đều do VNQD đảng thực hiện. Điển hình nhất là vụ ám sát Badanh(Bazin) – tên trùm mộ phu ở Bắc Trung Kì tại Hà Nội.

Vào dịp đầu tháng 2/1929, chủ sở mộ phu Badanh tiến hành một đợt mộ phu mới ở Bắc Kì làm cho đông đảo quần chúng bất bình, căm phẫn. Để khích lệ tinh thần đấu tranh chống chính sách mộ phu của Pháp, Thành bộ VNQD đảng Hà Nội đã cử Nguyễn Văn Viên thực hiện kế hoạch ám sát tên Badanh(ngày 9/2/1929), Nguyễn Văn Viên đã trốn thoát. Vụ án này đã làm nức lòng các tầng lớp nhân dân, còn bọn thực dân vô cùng hoảng sợ và tức tối. Chúng tăng cường lực lượng truy tìm thủ phạm vụ án, đồng thời nhân đà đó thẳng tay bắt bớ và khủng bố những người yêu nước, phá vỡ các tổ chức cách mạng. Hàng loạt đảng viên và quần chúng có cảm tình với Đảng bị bắt. Sau 5 tháng mở chiến dịch khủng bố, đến giữa tháng 7/1929, chính quyền thực dân đã bắt được 225 đảng viên đưa ra xử án. Đồng thời tại Hà Nội và nhiều tỉnh khác như Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh…, hệ thống tổ chức cơ sở Đảng hầu như bị phá vỡ. Nguy cơ tan rã hoàn toàn của VNQD đảng đang đến gần.

Nói tóm lại, VNQD đảng về căn bản là một tổ chức “phỏng theo mô hình cách mạng của Quốc dân Đảng Trung Quốc”. Nó đại diện cho quyền lợi và tư tưởng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản lớp trên. Vì thiếu một cơ sở kinh tế và giai cấp đủ mạnh làm chỗ dựa nên trong suốt mấy năm tồn tại của mình, VNQD đảng không thể đưa ra được một đường lối chính trị độc lập. Thêm vào đó, công tác tổ chức và phát triển Đảng rất sơ hở, lỏng lẻo; công tác tuyên truyền, huấn luyện thì sơ sài… Những nhược điểm và hạn chế đó làm cho VNQD đảng không đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.

II. Những chuyển biến mới của phong trào công nhân

Từ năm 1925 trở đi, nhờ sự xuất hiện và tăng cường hoạt động của tổ chức cách mạng HVNCMTN, các tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa cộng sản đã được truyền bá rộng rãi trong công nhân và nhân dân lao động. Nhờ vậy, phong trào công nhân ngày càng phát triển và chuyển biến nhanh chóng về chất. Các cuộc đình công, bãi công liên tiếp nổ ra ở nhiều nơi. Trong hai năm 1926-1927 đã nổ ra 27 cuộc đấu tranh của công nhân. Tiêu biểu là bãi công của công nhân Bưu điện Sài Gòn, công nhân Dệt Nam Định, công nhân đồn điền Cam Tiêm(1926); đấu tranh của công nhân đồn điền ở Đà Lạt, ở Thái Nguyên(1927)… Các cuộc đấu tranh này đều nhằm vào hai mục tiêu chung là: tăng lương từ 20-40% lương và đòi thực hiện ngày làm 8 giờ như công nhân bên Pháp. Điều này chứng tỏ công nhân không còn bị chi phối và lệ thuộc nặng nề vào các yêu cầu và lợi ích cục bộ, địa phương, mà đã biết chú ý tới lợi ích chung của giai cấp, bằng cách đề ra các yêu sách phù hợp về cơ bản với nguyện vọng của đông đảo công nhân.

Từ năm 1928, phong trào “vô sản hoá” của HVNCMTN và TVCMĐ đã có tác dụng thúc đẩy và nâng cao nhanh chóng ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Vì vậy, phong trào công nhân đã nổ ra mạnh mẽ, sôi nổi, đều khắp 3 kì. Số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân trong các năm 1928-1929 đã lên tới 40 cuộc, tăng gấp 2,5 lần so với 2 năm 1926-1927. Trong đó tiêu biểu là các cuộc bãi công của công nhân Mỏ than Mạo Khê(Quảng Ninh), nhà máy Xi măng Hải Phòng, nhà máy tơ Nam Định, nhà máy cưa Bến Thuỷ(Vinh), công nhân đồn điền Lộc Ninh(1928); đấu tranh của công nhân hãng xe tay Hải Phòng, dệt Nam Định, xe lửa Tràng Thi(Vinh), nhà máy Avia(Hà Nội), đồn điền cao su Phú Riềng, hãng dầu Hải Phòng, nhà máy gang Hưng Kí(Bắc Ninh), đồn điền cao su Cam Tiêm(1929)…

Đặc biệt, trong cuộc đấu tranh của 200 công nhân xưởng sửa chữa ô tô Avia(Hà Nội) 5/1929 đã có sự lãnh đạo của Kì bộ HVNCMTN và Chi bộ cộng sản đầu tiên, mà người đóng vai trò chỉ đạo trực tiếp là đồng chí Ngô Gia Tự. Để chỉ đạo công nhân đấu tranh, một Uỷ ban bãi công đã được thành lập. Uỷ ban bãi công đã phát truyền đơn kêu gọi công nhân và lao động Hà Nội hưởng ứng và ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Avia. Nhờ vậy, cuộc bãi công đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ tích cực của công nhân nhiều nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn Hà Nội và một số tỉnh xung quanh như Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định.

Tháng 7/1929, Tổng Công hội Đỏ Bắc Kì được thành lập. Tổng công hội đã đề ra Chương trình, Điều lệ và quyết định xuất bản tờ “Lao động” làm cơ quan ngôn luận. Sự kiện đó vừa thể hiện bước trưởng thành của phong trào công nhân, vừa tạo điều kiện thúc đẩy giai cấp công nhân đi dần vào đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo thống nhất.

Nhìn chung, trong thời kì 1926 – 1929, phong trào công nhân Việt Nam đã có những bước tiến bộ mới so với trước. Các cuộc bãi công nổ ra rầm rộ, sôi nổi và quyết liệt hơn. Những cuộc đấu tranh tự phát đã giảm đi và thay vào đó là những cuộc đấu tranh có ý thức, có tổ chức với quy mô ngày càng lớn. Công nhân đấu tranh không chỉ nhằm đòi các quyền lợi kinh tế(như tăng lương, giảm giờ làm, đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt), mà còn nhằm cả mục đích chính trị(chống lại chinh sách áp bức, bóc lột của bọn chủ tư bản và chính quyền thực dân phong kiến). Họ cũng đã biết đoàn kết nhau lại để đấu tranh có phương pháp, có tổ chức và kế hoạch. Chính bọn thực dân đã phải thừa nhận: “Từ đây, hành động tập thể của những người lao động đã thay thế cho những vụ âm mưu của các hội kín”.

Cùng với các cuộc đấu tranh ngày càng trở nên quyết liệt, giai cấp công nhân còn có nhiều hoạt động biểu lộ tinh thần cách mạng, ý thức quốc tế của mình. Trong các dịp kỷ niệm ngày Quốc tế lao động(1/5/1929) và Cách mạng tháng Mười Nga(7/11/1929), công nhân nhiều nơi đã tổ chức mít tinh, treo cờ đỏ, rải truyền đơn tuyên truyền cách mạng.

Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân ngày càng có sức thu hút, lôi cuốn mạnh mẽ đối với nhiều tầng lớp nhân dân khác, nhất là nông dân, đi vào đấu tranh chống đế quốc phong kiến. Từ 1927-1929 đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của nông dân chống sưu cao thuế nặng, chống các thủ đoạn cướp đoạt ruộng đất của bọn cường hào ác bá. Điển hình là các cuộc đấu tranh của nông dân Bình Giang, Thanh Hà, Tứ Kì, Vĩnh Bảo(Hải Dương), Tú Đôi, Kiến Thuỵ(Kiến An), Tam Sơn(Bắc Ninh). Ở các tỉnh Thái Bình, Nghệ An, bên cạnh các cuộc đấu tranh chống sưu cao thuế nặng, nông dân còn lập ra các Hội tương tế, Hội hát, Hội lợp nhà, Hội hiếu hỉ… để đoàn kết giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn, đồng thời vận động bài trừ các hủ tục trong cưới xin, ma chay…

Phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của nông dân và các tầng lớp thị dân càng phát triển sôi nổi thì càng đòi hỏi phải có người tổ chức và lãnh đạo. Nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lương dân tộc và gánh vác vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng đất nước được đặt ra, và ngày càng trở nên bức xúc đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

III. Ba tổ chức cộng sản ra đời và việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

  1. 1. Sự xuất hiện của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam

Vào cuối những năm 20, Bắc Kì là nơi có phong trào cách mạng phát triển mạnh hơn cả so với các vùng khác trong cả nước. Tại đây, hai tổ chức HVNCMTN và VNQDĐ đang ra sức hoạt động nhằm lôi kéo và tranh giành quần chúng. Trong khi VNQDĐ đang ngày càng tỏ ra lúng túng về phương thức hoạt động, thì tổ chức HVNCMTN hoạt động ngày càng có hiệu quả cao. Số hội viên HVNCMTN ở Bắc Kì đã phát triển khá đông(chiếm 900/1.600 hội viên trong cả nước). Hơn thế nữa, thông qua phong trào “Vô sản hoá”, và nhất là chịu tác động trực tiếp của phong trào cộng sản qua con đường Trung Quốc dội vào, nhiều hội viên Thanh Niên tiên tiến – là những học trò xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – đã sớm nắm bắt được các yêu cầu của thời cuộc và nhanh chóng nhận thấy sự cấp thiết phải thành lập một ĐCS để thay thế HVNCMTN lãnh đạo và đưa phong trào cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.

Để xúc tiến chuẩn bị thành lập ĐCS, tháng 3/1929, những hội viên tích cực nhất của HVNCMTN Bắc Kì đã nhóm họp tại số nhà 5D phố Hàm Long(Hà Nội), quyết định thành lập ra Chi bộ cộng sản đầu tiên, gồm 7 người là: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Đỗ Ngọc Du, Dương Hạc Đính và Nguyễn Tuân.

Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ cộng sản, cuối tháng 3/1929, Kì bộ HVNCMTN Bắc Kì đã họp Đại hội tại Sơn Tây. Đại hội đã trao đổi, thảo luận nhiều ý kiến và đi tới thống nhất chủ trương thành lập ĐCS của những người lãnh đạo Kì bộ; đồng thời quyết định cử một đoàn đại biểu gồm 4 người do Trần Văn Cung(Bí thư Kì bộ) phụ trách đi dự Đại hội lần thứ I của HVNCMTN sẽ tổ chức ở Hương Cảng.

Đầu tháng 5/1929, tại Đại hội I của HVNCMTN, Đoàn đại biểu Kì bộ Bắc Kì đã đưa ra đề nghị giải tán tổ chức Thanh Niên và thành lập ĐCS. Nhưng đề nghị đó không được chấp thuận. Đoàn đại biểu Kì bộ Bắc Kì đã bỏ Đại hội ra về.

Sau khi trở về nước, ngày 1/6/1929, Đoàn đại biểu Kì bộ Bắc Kì đã ra Tuyên Ngôn giải thích lý do vì sao họ rời bỏ Đại hội, và chỉ rõ những điều kiện để thành lập một chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân đã chín muồi. Tuyên Ngôn viết:

“1- Ở Việt Nam tư bản đã rất phát đạt và bắt đầu nhóm vào một số ít người(tư bản tập trung).

2- Vô sản giai cấp ở Việt Nam ngày càng đông và càng giác ngộ; nông dân nghèo cũng một ngày một nhiều.

3- Hiện nay ở Việt Nam chưa có đảng nào là đại biểu cho vô sản giai cấp”.

Từ sự phân tích đó, bản Tuyên Ngôn nhấn mạnh: “Phải tổ chức ngay Đảng Cộng sản thì mới dẫn đạo cho vô sản giai cấp làm cách mệnh được”.

Tuyên Ngôn của Đoàn đại biểu Kì bộ Bắc Kì đã có sức hút mạnh đối với các hội viên HVNCMTN, nhiều hội viên đã hăng hái xin gia nhập Chi bộ Cộng sản. Để đáp ứng nhu cầu đó, ngày 17/6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập, tại số nhà 312 phố Khâm Thiên(Hà Nội), với sự tham dự của 20 đại biểu ưu tú của Kì bộ Thanh Niên. Sau khi ra đời, Đông Dương Cộng sản Đảng tuyên bố Tuyên Ngôn, Điều Lệ và phát hành báo Búa Liềm làm cơ quan tuyên truyền của Đảng. Bản Tuyên Ngôn nêu rõ Đông Dương Cộng sản Đảng là đảng đại biểu cho giai cấp vô sản, bao gồm những người giác ngộ và tiên tiến hơn cả. Đảng bênh vực quyền lợi cho “toàn thể vô sản giai cấp, dân cày nghèo và tất cả những người làm lụng bị bóc lột và đè nén”.

Bên cạnh công tác tuyên truyền, Đông Dương Cộng sản Đảng còn cử người đi vào Nam Kì và về các địa phương để xây dựng và phát triển cơ sở Đảng. Do đó, đến tháng 8/1929, nhiều cơ sở Đảng, nhất là ở Bắc Kì, đã được thành lập.

Trước ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của Đông Dương Cộng sản Đảng, Tổng bộ Thanh Niên và Kì bộ Nam Kì quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng vào tháng 7/1929. An Nam Cộng sản Đảng xuất bản báo “Đỏ” ở Hương Cảng, rồi gửi về nước để truyền bá trong nhân dân.

Cùng với quá trình phân hoá trong HVNCMTN dẫn tới sự ra đời của hai tổ chức cộng sản, xu hướng XHCN ngày càng lôi cuốn và tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của đại đa số đảng viên Tân Việt. Các đại biểu Tân Việt chân chính họp tại Sài Gòn(9/1929), đã ra Tuyên Đạt chính thức thành lập ra Đông Dương Cộng sản liên đoàn.

Ngày 31/12/1929, một số đại biểu ưu tú của TVCMĐ như Trần Hữu Chương, Nguyễn Xuân Thanh, Nguyễn Khoa Văn, Trần Đại Quả, Ngô Đức Đệ… đã họp mặt trên một con thuyền trên sông Đò Trai(Đức Thọ) để thảo luận và thông qua các văn kiện của Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Cuộc họp bị lộ, tất cả các đại biểu tham dự họp đều bị bắt, rồi đưa về giam tại nhà lao Vinh. Đến đây, quá trình phân hoá trong nội bộ tổ chức TVCMĐ coi như kết thúc.

Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản vào nửa sau năm 1929 khẳng định bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ hệ tư tưởng cộng sản đã giành được ưu thế trong phong trào dân tộc. Sự kiện đó cũng chỉ ra rằng những điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản đã hoàn toàn chín muồi trong phạm vi cả nước.

2. Thống nhất phong trào cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sauk hi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế cộng sản và đều tự nhận mình là đảng cách mạng chân chính. Tuy nhiên, trong quá trình tuyên truyền, vận động quần chúng, các tổ chức cộng sản không tránh khỏi tranh giành ảnh hưởng, công kích lẫn nhau. Đông Dương Cộng sản Đảng cho An Nam Cộng sản Đảng là “hoạt đầu, giả cách mạng”; An Nam Cộng sản Đảng lại cho Đông Dương Cộng sản Đảng chưa “thật sự là cộng sản”, “chưa thật sự là Bônsêvich”…

Tình hình đó gây tổn hại lớn cho sự phát triển của phong trào cách mạng, vừa gây nên tâm trạng nghi ngờ hoang mang trong quần chúng.

Ngày 27/10/1929, Quốc tế Cộng sản đã gửi cho những người Đông Dương một bức thư, trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt sự chia rẽ công kích lẫn nhau, đồng thời xúc tiến hợp nhất thành một chính đảng duy nhất ở Đông Dương. Thực hiện Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Đông Dương Cộng sản Đảng đã cử đại diện sang Hương Cảng tiếp xúc và bàn việc hợp nhất với An Nam Cộng sản Đảng. Trong các cuộc gặp gỡ, mỗi bên đã đưa ra những yêu cầu mà bên kia không thể chấp nhận được. Kế hoạch hợp nhất do hai đảng chủ động đề ra do đó đã không đạt kết quả.

Đúng vào thời điểm khó khăn, phức tạp ấy, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện như một vị cứu tinh của cách mạng và phong trào cộng sản Việt Nam.

Sau vụ phản loạn của Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc, từ tháng 4/1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu sang Liên Xô và tiếp tục hoạt động trong Quốc tế Cộng sản. Cuối năm 1927, Người qua Đức, Pháp, rồi trở về Xiêm. Tại đây, Người ra sức tuyên truyền, giác ngộ và xây dựng các cơ sở HVNCMTN trong kiều bào Việt Nam.

Đầu tháng Giêng năm 1930, trước nhu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, được sự uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến Hương Cảng để triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một ĐCS duy nhất ở Việt Nam.

Hội nghị có 5 đại biểu, hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng(Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh) và hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng(Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tại phiên họp ngày 3/2/1930, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành ĐCS Việt Nam, đồng thời thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ tóm tắt của Đảng.

Bản Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định ĐCS Việt Nam “là đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Đảng chủ trương tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

Nhiệm vụ của cuộc cách mạng đó là đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, thành lập chính phủ công nông binh. Chính phủ đó sẽ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc phong kiến để chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hoá các sản nghiệp, mở mang phát triển công nông nghiệp, thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng nam nữ, thi hành luật ngày làm 8 giờ…

Để hoàn thành được mục tiêu trên, “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo”. Đồng thời lại “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nữa là làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”.

Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo và thông qua tại Hội nghị đã vạch ra phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng XHCN. Đường lối đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Sau Hội nghị hợp nhất Đảng, ngày 24/2/1930, theo đề nghị của Đông Dương Cộng sản liên đoàn, Ban chấp hành TW lâm thời của ĐCS Việt Nam đã chấp thuận kết nạp tổ chức cộng sản này vào Đảng. Như vậy, phải tính đến ngày 24/2/1930, việc hợp nhất giữa 3 tổ chức cộng sản thành 1 chính đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam mới được hoàn tất trên thực tế.

ĐCS Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại, với phong trào công nhân, và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng, chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ đây, giai cấp công nhân thật sự trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất trong cả nước. Thông qua chính đảng của mình, giai cấp công nhân có sự mệnh lãnh đạo toàn thể dân tộc và nhân dân vượt qua mọi thác ghềnh hiểm trở để đưa con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ vinh quang. Sự ra đời của Đảng ngày 3/2/1930 đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng đường lối cứu nước ở Việt Nam trong mấy chục năm qua. Đây là khâu chuẩn bị quan trọng đầu tiên cho một thời kỳ vùng dậy oanh liệt nhất và bước nhảy vọt vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc.

Với sự ra đời của Đảng, cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới, và dân tộc Việt Nam từ đây sẽ từng bước tiến lên hội nhập vào phong trào cách mạng thế giới.

IV. Khởi nghĩa Yên Bái và những cố gắng cuối cùng của Việt Nam quốc dân đảng.

1. Khởi nghĩa Yên Bái

Từ đầu tháng 2/1929, nhân vụ án Bazin, thực dân Pháp ra sức truy lùng, bắt bớ những người yêu nước và phá vỡ hang loạt những cơ sở cách mạng của VNQDĐ ở Hà Nội và các tỉnh. Số phận VNQDĐ đang mấp mé bên bờ vực thẳm.

Trước tình thế nguy cấp, những người lãnh đạo Tổng bộ cho rằng không thể cứ ngồi yên chịu chết, mà phải đứng lên sống mái với quân thù. Từ cách nhìn nhận đó, Nguyễn Thái Học đã quyết định triệu tập hội nghị đại biểu toàn quốc của VNQDĐ ngày 17/9/1929 tại Lạc Đạo(Hải Dương) để bàn bạc và thống nhất kế hoạch khởi sự. Trong Hội nghị này, xuất hiện 2 phái: phái Cải Tổ và phái Khởi Nghĩa. Phái chủ trương khởi nghĩa do Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu đứng đầu chiếm ưu thế trong hội nghị. Tiếp theo hội nghị đại biểu toàn quốc, VNQDĐ còn tổ chức một cuộc họp nữa ở Bắc Ninh để hoạch định thời gian và phương thức tiến hành khởi nghĩa. Theo kế hoạch đã được thống nhất, VNQDĐ sẽ tổ chức khởi nghĩa ở các nơi và cùng lúc đánh vào các đô thị lớn là những trung tâm quân sự của Pháp. Lực lượng khởi nghĩa chủ yếu gồm anh em binh lính là người của Đảng trong quân đội của Pháp, đồng thời phối hợp với lực lượng của Đảng ở bên ngoài. Vũ khí một phần do các cơ sở của Đảng chế tạo, phần còn lại phải cướp từ tay giặc. Thời gian khởi nghĩa ấn định vào ngày 9/2/1930. Theo phân công của Đảng, Nguyễn Thái Học trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh đồng bằng: Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An; còn Nguyễn Khắc Nhu chịu trách nhiệm tổ chức cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh trung du: Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái.

Sau 2 hội nghị ở Lạc Đạo và Bắc Ninh, công tác chuẩn bị khởi nghĩa được triển khai và đẩy mạnh ở các địa phương. Các xưởng chế bom được lập ra tại các tỉnh Bắc Ninh, Phú Thọ, Hải Dương, và đã sản xuất được hàng nghìn quả bom xi măng. Ngoài ra, VNQDĐ còn tổ chức rèn dao, kiếm, mã tấu và đưa đi cất giấu ở những nơi kín đáo chờ ngày khởi sự. Các cơ sở may cờ, quân phục và in truyền đơn cũng làm việc liên tục ngày đêm.

Giữa lúc công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa đang được tiến hành khẩn trương thì một số biến cố đã xảy ra, gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động của VNQDĐ. Điển hình là vụ nổ bom do sơ suất khi chế tạo đã làm chế 3 đảng viên VNQDĐ ở Bắc Ninh (3/9/1929), và nhất là vụ phản bội của Phạm Thành Dương (tức Đội Dương) ngày 25/12/1929 tại Hội nghĩ Võng La (Phú Thọ). Những sự cố này đã buộc Pháp cảnh giác, tăng cường các cuộc lùng sục, khủng bố, đẩy VNQDĐ đến nguy cơ khởi nghĩa non.

Để đối phó với tình hình, ngày 26/1/1930, Nguyễn Thái Học lại triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại làng Mỹ Xá (Nam Sách – Hải Dương) để khẳng định lại chủ trương khởi nghĩa, đồng thời kiểm tra và thúc đẩy tiến độ thực hiện các công việc chuẩn bị khởi nghĩa. Trên cơ sở phân tích tình hình của Đảng, Nguyễn Thái Học nhận xét: “Đảng chúng ta (tức VNQDĐ – TG) có thể tiêu ma hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã chen vào đầu óc quần chúng kiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi người của Đảng cũng sẽ liên tiếp bị bắt dần, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục trại giam. Âu là chết đi để thành cái gương phấn đấu cho người sau nối bước. Không thành công thì cũng thành nhân”.

Căn cứ vào kết quả chuẩn bị khởi nghĩa ở các địa phương, Nguyễn Thái Học đã bàn bạc với các đồng chí, quyết định hoãn thời gian khởi nghĩa tại 3 tỉnh miền xuôi đến ngày 15/2/1930.

Đúng như kế hoạch đã định, đêm ngày mồng 9, rạng ngày 10/2/1930, cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ ở Yên Bái. Quân khởi nghĩa  đã chiếm được trại lính cơ số 5 và 6, giết được một số sĩ quan và hạ sĩ quan người Pháp. Nhưng họ vẫn không lôi kéo được toàn bộ lính khố xanh, và không làm chủ được tình hình chiến sự ở Yên Bái.

Sáng ngày 10/2, Pháp tập trung lực lượng (có máy bay yểm trợ) tổ chức phản công chiếm lại các căn cứ bị mất, đẩy nghĩa quân vào tình trạng tan rã.

Tại Lâm Thao (Phú Thọ), nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Phạm Nhận đã nhất loạt nổ súng và nhanh chóng chiếm được huyện đường. Tri phủ Đỗ Kim Ngọc bỏ trốn. Nghĩa quân treo cờ và đốt lửa báo tin thắng lợi.

Cũng đêm mồng 9/2/1930, Nguyễn Khắc Nhu dẫn một toán nghĩa quân đến đánh đồng Hưng Hoá, nhưng không đạt kết quả. Sáng hôm sau, quân Pháp từ Phú Thọ kéo lên phản công quyết liệt, quân khởi nghĩa bị đánh tan, Nguyễn Khắc Nhu bị thương, sau đó bị bắt, rồi tự sát để giữ tròn khí tiết.

Tại Sơn Tây, cuộc tấn công đánh đồng Chùa Thông cũng không giành được thắng lợi do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ. Sáng ngày 10/2, người phụ trách cuộc khởi nghĩa ở đây là Phó Đức Chính đã bị bắt.

Sau khi các cuộc nổi dậy ở các tỉnh miền ngược do Nguyễn Khắc Nhu lãnh đạo đã thất bại, thì tại các tỉnh miền xuôi kế hoạch khởi nghĩa mới bắt đầu được triển khai. Đêm ngày 14, rạng ngày 15/2/1930, VNQDĐ đã nổi dậy khởi nghĩa ở Phả Lại, Vĩnh Bảo (Hải Dương), Kiến An và Phụ Dực (Thái Bình), nhưng đều không thu được kết quả.

Tại Vĩnh Bảo, dưới sự chỉ huy của Trần Quang Diệu, nghĩa quân đã từ Cổ Am kéo lên đánh phá huyện đường, giết tri huyện Hoàng Gia Mô, rồi tự giải tán. Ở Phụ Dực, nghĩa quân đánh chiếm phủ huyện, đốt hết giấy tờ sổ sách, sau đó tự giải tán.

Tại Kiến An, do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ, thực dân Pháp đã tức thời bắt giam toàn bộ số lính khố đỏ, và tổ chức canh phòng cẩn mật. Biết không thể khởi nghĩa thắng lợi, nghĩa quân nhanh chóng tự giải tán trước khi bị quân Pháp phản công.

Riêng ở Hà Nội, ngay đêm nổ ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái (10/2), một số đảng viên VNQDĐ (đều là học sinh trường Bách Nghệ) đã ném bom vào nhà tên Giám đốc Sở Mật thám Ác-nu (Arnuox), vào nhà tù Hoả Lò và Sở Cảnh sát. Nhưng các vụ ném bom này ít gây tổn hại cho Pháp, không có tiếng vang lớn trong dân chúng.

Như vậy, chỉ trong vòng 1 tuần lễ, cuộc khởi nghĩa vũ trang quy mô lớn do VNQDĐ phát động đã bùng nổ ở nhiều nơi và mau chóng đi tới thất bại. Cuộc khởi nghĩa tuy không đạt được kết quả (do công tác tổ chức thiếu chu đáo, “kế hoạch rất chủ quan”, còn Pháp thì đang mạnh), nhưng đã có tiếng vang cả trong và ngoài nước. Tại thủ đô Paris (Pháp), sinh viên và Việt kiều đã tổ chức biểu tình ủng hộ khởi nghĩa Yên Bái và chống việc khủng bố các chiến sĩ VNQDĐ.

Khởi nghĩa Yên Bái với những hành động quả cảm của các nghĩa quân VNQDĐ đã thể hiện tinh thần yêu nước, chí khí quật cường của dân tộc ta, góp phần thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong các tầng lớp nhân dân. Từ đó, thấy rõ mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp đã trở nên vô cùng gay gắt.

Tuy nhiên, thất bại của khởi nghĩa Yên Bái, cũng chứng tỏ sự bồng bột, hăng hái nhất thời của tầng lớp tiểu tư sản. Đó cũng là thất bại của giai cấp tư sản dân tộc trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Đồng chí Lê Duẩn – nguyên Tổng Bí thư ĐCS Việt Nam nhận định: “Khởi nghĩa Yên Bái chỉ là một cuộc bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động non, để rồi chết luôn không bao giờ ngóc lên nổi. Khẩu hiệu “Không thành công thì thành nhân” biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản”.

Từ sau cuộc bạo động Yên Bái, VNQDĐ hoàn toàn tan rã, khuynh hướng cách mạng dân tộc hoàn toàn thất bại, hệ tư tưởng tư sản cũng hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Ngọn cờ cách mạng đã chuyển hẳn sang tay giai cấp vô sản. Từ đây trở đi, “trên dải đất Việt Nam, phong trào chống đế quốc, giành độc lập dân tộc chỉ là những phong trào do giai cấp vô sản lãnh đạo”.

2. Chính sách khủng bố của thực dân Pháp và những cố gắng cuối cùng của “Phái cải tổ” trong VNQDĐ.

Để trả thù hành động yêu nước của các chiến sĩ VNQDĐ – mặc dù cuộc khởi nghĩa đã thất bại – chính quyền thực dân đã thực hiện một chiến dịch khủng bố tàn khốc đối với các tầng lớp nhân dân ta. Các đảng viên và những người có liên quan tới VNQDĐ bị truy lùng gắt gao, trong đó có hàng ngàn người bị bắt. Ngày 14/2/1930, Toàn quyền Đông Dương Paxkiê (P. Pasquier) đã đưa ra Nghị định thành lập Hội đồng Đề hình và cử Thanh tra Hành chính Bắc Kì Ôdiê (Poulet Osier) phụ trách. Qua nhiều phiên họp, Hội đồng Đề hình đã kết án 1086 người, trong đó 80 người bị xử tử hình, 594 người bị Phạt tù nặng.

Tàn bạo hơn nữa là vào trưa ngày 16/2/1930, thực dân Pháp đã cho 5 máy bay tới Vĩnh Bảo, ném bom và xả đạn súng máy xuống làng Cổ Am làm cháy trụi hết nhà cửa và giết hại 21 người dân. Tiếp đó, thực dân Pháp còn đưa lính đi khủng bố và tàn sát dã man nhân dân ở những làng đã từng có phong trào VNQDĐ phát triển mạnh như: Đồng Tải, Phong Cầu (Kiến An); Võng La, Sơn Dương (Phú Thọ)… Ngày 20/2/1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (xã Cộng Hoà, Chí Linh, Hải Dương) và bị đưa về giam tại Hoả Lò – Hà Nội. Ngày 23/3 ông bị đưa ra xét xử và bị khép án tử hình. Gần 3 tháng sau, vào ngày 17/6/1930, Nguyễn Thái Học cùng 12 chiến sĩ trung kiên của VNQDĐ đã bị xử chém tại thị xã Yên Bái.

Trong những ngày chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa Yên Bái, phái “cải tổ” của VNQDĐ nằm “án binh bất động”. Họ chủ trương kéo dài thời gian xây dựng lực lượng, tiến tới cải tổ lại Đảng cho thật vững chắc rồi mới tiến hành khởi nghĩa.

Vì vậy, ngay sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, phái “cải tổ” do Lê Hữu Cảnh đứng đầu đã nhanh chóng bắt liên lạc với các đảng viên còn lại, tích cực chuẩn bị mọi điều kiện để cải tổ lại Đảng. Tại một cuộc họp do Lê Hữu Cảnh triệu tập với sự tham gia của Nguyễn Xuân Huân, Lê Tiến Sự, Nguyễn Đức Lâm, Phạm Văn Hể, phái “cải tổ” đã quyết định bầu lại Tổng bộ mới, và xây dựng kế hoạch phát triển cơ sở Đảng ở các địa phương. Do đó, các cơ sở VNQDĐ được phục hồi khá nhanh ở các tỉnh Vĩnh Yên, Hải Dương.

Tuy nhiên, phương thức hoạt động của phái này vẫn không có gì thay đổi so với trước. Họ chủ yếu tổ chức các vụ ám sát, tống tiền, gây hoang mang, kinh sợ trong bọn thực dân, chớ không coi trọng công tác tuyên truyền trong quần chúng nhân dân. Điển hình là các vụ ám sát hụt Toàn quyền Paxkiê, Tổng đốc Vi Văn Định, vụ xử tội phản bội của Phạm Thanh Dương…

Để tiêu diệt nốt những cố gắng cuối cùng của VNQDĐ “cải tổ”, thực dân Pháp càng ra tay đàn áp. Cuối tháng 6/1930, cơ quan Tổng bộ bị phá vỡ, Lê Hữu Cảnh bị bắt. Đầu năm 1931, một thành viên khác của phái “cải tổ” là Vũ Tiến Lữ đã liên lạc với một số đảng viên của Đảng ở Hà Nội, Hải Phòng, dự tính sẽ tiến hành tổ chức lại VNQDĐ. Nhưng trước sự truy lùng gắt gao của thực dân Pháp, kế hoạch này cũng không thực hiện được. Sau này, hoạt động của phái “cải tổ” vẫn còn được duy trì ở một vài vùng thuộc tỉnh Hải Dương. Tại những nơi này, các đảng viên tiếp tục chế bom và tiến hành các vụ ám sát, tống tiền để tạo nguồn tài chính cho công cuộc phục hồi lại Đảng. Mãi đến cuối năm 1932, những cố gắng cuối cùng của phái “cải tổ” trong VNQDĐ mới hoàn toàn bị dập tắt.

Có thể nói vai trò của VNQDĐ trong phong trào dân tộc trên thực tế đã chấm dứt từ sau khởi nghĩa Yên Bái. Còn các hoạt động sau đó của những đảng viên thuộc phái “cải tổ” trong VNQDĐ chỉ là những âm hưởng cuối cùng của một tiếng chuông đã tắt. Sau này, một số đảng viên VNQDĐ chạy sang Trung Quốc đã biến chất, trở thành tay sai của nước ngoài, rồi được đưa về nước để chống phá phong trào cách mạng của nhân dân ta.

(Xem tiếp Chương X)

Chương VIII: Bước phát triển mới của phong trào dân tộc ở Việt Nam sau chiến tranh

Tháng Bảy 11, 2009

So với các giai đoạn trước, phong trào dân tộc ở Việt Nam từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu có những chuyển biến mới cả về nội dung và hình thức biểu hiện. Những chuyển biến đó bắt nguồn từ những biến đổi trong kết cấu kinh tế-xã hội, cũng như trong tâm lí và tư tưởng.

Bên cạnh sự chi phối của các điều kiện kinh tế-xã hội trong nước, phong trào dân tộc ở Việt Nam thời kỳ này còn chịu sự tác động sâu sắc của tình hình trong khu vực và trên thế giới.

I- Bối cảnh thế giới sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

Cuộc chiến tranh TG1 (1914-1918) về thực chất chỉ là một cuộc chiến tranh phân chia thế lực, khu vực ảnh hưởng và các thuộc địa giữa các cường quốc đế quốc. Chiến tranh đã kết thúc, nhưng hậu quả của nó để lại còn hết sức nặng nề cho toàn nhân loại. Khoảng 10 triệu người chết và 20 triệu người tàn phế. Các chi phí trực tiếp về quân sự của các nước tham chiến lên tới 200 tỉ đô la. Chiến tranh tàn phá hang loạt nhà máy, xí nghiệp, đường giao thông, nhà cửa, trường học, đồng thời đẩy nhiều nước tư bản vào tình trạng suy kiệt về tài chính.

Ngày 18/1/1919, đại diện của các nước thắng và bại trận trong 2 phe Đồng Minh và Hiệp Ước đã họp tại Vecxai để phân chia kết quả chiến tranh.

Anh, sau đó là Pháp, giành được nhiều quyền lợi nhất. Các nước bại trận, nhất là Đức, vừa mất thuộc địa, vừa phải bồi thường chiến phí lên đến trên 100 tỉ Mác. Kết quả của HN Vecxai cũng dẫn đến sự ra đời của một số quốc gia mới trên lãnh thổ của đế quốc Áo-Hung và một phần lãnh thổ mà Đức chiếm đóng trước kia(là Ba Lan, Tiệp Khắc, Áo, Hung, Nam Tư).

Từ đầu những năm 20 trở đi, các nước tư bản bước vào thời kì khôi phục và phát triển kinh tế, là thời kì ổn định cục bộ và tạm thời của CNTB thế giới.

Chiến tranh TG1 đã làm thay đổi vị trí và tương quan lực lượng giữa các nước đế quốc, đồng thời đưa đến một hệ quả ngoài ý muốn của mọi nước tư bản: đó là Cuộc cách mạng XHCN tháng Mười Nga 1917 thắng lợi dẫn đến sự ra đời của nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới.

Với thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga, hệ thống dây chuyền đế quốc chủ nghĩa thế giới bị chặt đứt, con đường cách mạng vô sản được khai thông, nối liền từ Tây sang Đông.v.v.

Dưới ảnh hưởng trực tiếp của cách mạng tháng Mười Nga và Chiến tranh TG1, phong trào đấu tranh chống đế quốc ở các nước tư bản phương Tây dâng lên mạnh mẽ. Đầu 1918, cách mạng công nhân bùng nổ ở Phần Lan. Tháng 10/1918, chế độ quân chủ ở Áo-Hung bị sụp đổ. Cũng trong năm đó, giai cấp công nhân Đức đã nổi dậy quật đổ chế độ quân chủ và thành lập chính quyền Xô-viết trong một thời gian. Tháng 3/1919, nước Cộng hoà Xô-viết Hung-ga-ri được thành lập và tồn tại hơn 4 tháng. Tại các nước tư bản khác như Anh, Pháp, Ý, Mĩ…, nhiều cuộc bãi công và đấu tranh của công nhân và lao động đã nổ ra khá rầm rộ.

Do sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, từ 1918 trở đi, tại nhiều nước châu Âu, các Đảng Cộng sản đã lần lượt được thành lập. Tháng 3/1919, trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, Quốc tế Cộng sản-tức Quốc tế III – đội tham mưu chiến đấu của giai cấp vô sản quốc tế đã ra đời tại Matxcơva. Quốc tế III đã tiến hành tuyên truyền tư tưởng cộng sản, đồng thời đề ra đường lối, phương hướng và trực tiếp chỉ đạo, giúp đỡ các nước thuộc địa và phụ thuộc trong cuộc đấu tranh chống ách nô dịch của CNTB phương Tây.

Ở châu Á, tháng 3/1919, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Triều Tiên chống Nhật Bản bùng nổ. Tháng 5/1919, phong trào Ngũ Tứ mang tính chất dân tộc dân chủ đã nổ ra và lan rộng khắp Trung Quốc thu hút hang triệu người tham gia. Tại Ấn Độ, phong trào bất hợp tác, chống lại sự thống trị của thực dân Anh cũng đã được sự tham gia đông đảo của nhân dân trong nhiều năm.

Tuy nhiên, từ những năm 1924-1925 trở đi, phong trào cách mạng thế giới tạm thời lắng xuống. Đối với các nước đế quốc, đây là thời kỳ vừa ra sức khôi phục, phát triển kinh tế, vừa ra sức bao vây, phá hoại Liên Xô-thành trì của cách mạng thế giới. Sự đối địch lúc ngấm ngầm, khi công khai, giữa 2 phe, 2 hệ thống có chế độ chính trị-xã hội khác nhau là TBCN và XHCN đã xuất hiện và trở thành đặc điểm lớn nhất của thời đại, của lịch sử thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Cuộc vận động giải phóng dân tộc ở VN thời kỳ sau chiến tranh đã diễn ra và phát triển trong bối cảnh lịch sử đó.

II- Hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc

Nguyễn Ái Quốc(lúc nhỏ tên Nguyễn Sinh Cung, sau là Nguyễn Tất Thành) sinh ngày 19/5/1890 tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, Nghệ An. Cha là Nguyễn Sinh Sắc(1863-1929) đỗ Phó Bảng, bị ép ra làm quan, sau khi bị cách chức, ông chuyển sang làm nghề thầy thuốc. Mẹ Nguyễn Ái Quốc là Hoàng Thị Loan(1868-1900), là một phụ nữ có học, đảm đang.

Sinh ra trong một gia đình trí thức, lớn lên từ một miền quê có truyền thống quật khởi, Nguyễn Ái Quốc từ rất sớm đã có “chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào”. NAQ rất khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh…, nhưng không tán thành con đường cứu nước của các bậc tiền bối.

Xuất phát từ long yêu nước, trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại của các thế hệ cách mạng đi trước, ngày 6/5/1911 Nguyễn Ái Quốc quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới hữu hiệu hơn. Khác với các thế hệ thanh niên đầu thế kỷ thường hướng về Nhật Bản, NAQ quyết định sang phương Tây, đến nước Pháp để tìm hiểu xem “nước Pháp và các nước khác làm thế nào, rồi sẽ trở về giúp đồng bào mình”. Trong nhiều năm sau đó, NAQ đã đi qua nhiều nước ở các đại lục Á, Âu, Phi, Mĩ, đã phải làm nhiều nghề khác nhau như rửa bát, dọn tàu, quét rác.v.v. để sống và học tập. Nhờ đó, NAQ hiểu ở đâu bọn thực dân, đế quốc cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị áp bức, bị bóc lột dã man.

Vào cuối chiến tranh thế giới I, khoảng cuối 1917, NAQ từ Anh trở lại Pháp. Tại đây, hoạt động đầu tiên của NAQ là đấu tranh cho binh lính và thợ thuyền VN được sớm hồi hương trở về với gia đình. Năm 1919, NAQ gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ chủ trương chống lại các chính sách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp ở thuộc địa. Tháng 6/1919, nhân dịp các nước thắng trận trong chiến tranh TG I họp tại Vecxai, NAQ thay mặt những người VN yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị “Bản yêu sách của nhân dân VN” để tố cáo chính sách thực dân của Pháp và đòi chính phủ Pháp phải thực hiện các quuyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc VN.

Bản yêu sách gồm 8 điểm:

– Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị

– Cải cách nền pháp lí Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như người Âu châu. Xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam.

– Tự do báo chí và tự do ngôn luận

– Tự do lập hội và hội họp

– Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương

– Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ

– Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật

– Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho nghị viện biết được những nguyện vọng của người dân bản xứ.

Giữa năm 1920, NAQ được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo-cơ quan TW của ĐCS Pháp. NAQ cảm thấy vô cùng phấn khởi, tin tưởng, muốn nói to lên như đang đứng trước đông đảo quần chúng lao khổ: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. NAQ đã tìm thấy con đường cứu nước. NAQ khẳng định: “Chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Từ đó, NAQ hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế III.

Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng XH Pháp ở Tua vào cuối 12/1920, NAQ đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III và tham gia sáng lập ĐCS Pháp. Hành động bỏ phiếu ủng hộ Quốc tế III là sự kiện đánh dấu bước nhảy vọt trong tư tưởng chính trị của NAQ, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Sự kiện đó chính là mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc VN một giai đoạn phát triển mới, “giai đoạn gắn phóng trào cách mạng VN đi theo con đường mà chính Người đã trải quan, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin”.

Sau này chính NAQ đã thừa nhận: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản đã làm tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III. Từng bước một trong quá trình đấu tranh, vừa nghiên cứu lí luận Mác-Lênin vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu rằng chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

Sau khi đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, từ 1921 trở đi, NAQ tiếp tục học tập để bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước của mình, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghiã Mác-Lênin vào trong nước nhằm chuẩn bị về tiền đề chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của chính đảng tiên phong ở VN, nhân tố cơ bản đầu tiên đảm bảo cho mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.

Giữa năm 1921 tại Pháp, NAQ cùng một số nhà cách mạng của Angiêri, Tuynidi, Marôc, Mađagaxca… thành lập Hội lien hiệp thuộc địa. Để tiến hành tuyên truyền đường lối và các hoạt động của Hội, NAQ và những người lãnh đạo Hội quyết định sang lập báo Le Paria(Người cùng khổ) vào ngày 1/4/1922. Tính đến năm 1926, báo Le Paria phát hành được 38 số, mỗi số in từ 1000 – 5000 bản, trong đó một nửa số báo được gửi đi các thuộc địa của Pháp ở châu Phi và Đông Dương.

Bên cạnh đó, NAQ còn tích cực tổ chức các buổi diễn thuyết, viết và đăng nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, tập san Thư tín quốc tế… Năm 1925, NAQ cho in tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp ở Pari.

Với tư cách là Trưởng Tiểu ban Đông Dương của ĐCS Pháp, NAQ cũng đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền về tư tưởng Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Tháng 6/1923, NAQ bí mật từ Pari đến Matxcơva. Trong khoảng gần một năm rưỡi ở Liên Xô, NAQ ra sức tìm hiểu tình hình mọi mặt của chế độ Xô viết, tích cức nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa trong Quốc tế cộng sản; tích cực tham dự nhiều Hội nghị quốc tế quan trọng như: Đại hội Quốc tế Nông dân, Đại hội Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội Quốc tế Thanh niên… Đặc biệt từ 17/6 – 18/7/1924, NAQ tham dự ĐH V của QTCS; tại đó NAQ đã trình bày một bản báo cáo rất quan trọng về vấn đề dân tộc và thuộc địa; bằng nhiều số liệu và tư liệu cụ thể, bản báo cáo đã làm sang tỏ và phát triển một số luận điểm của Lênin về bản chất của CNTD, về nhiệm vụ của các ĐCS trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột và giải phóng dân tộc ở các thuộc địa.

Như vậy, thời kỳ hoạt động ở Liên Xô là thời kì NAQ tiếp tục phát triển và hoàn chỉnh thêm tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, thông qua nghiên cứu thực tiễn và học tập trong các sách báo mác-xít. Nội dung tư tưởng chính trị của NAQ trong những năm 20 bao gồm những luận điểm cơ bản sau đây:

– NAQ chỉ rõ bản chất của CNTD là “ăn cướp” và “giết người”. Vì vậy, CNTD là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.

– Cách mạng GPDT là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng GPDT phải thực hiện đoàn kết và liên minh với cách lực lượng cách mạng quốc tế. Phải gắn liền sự nghiệp GPDT với giải phóng nhân dân lao động và giai cấp công nhân. NAQ nói: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và cách mạng thế giới”.

Người cho rằng cách mạng GPDT ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng khít biện chứng với nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng GPDT có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Ở đây, NAQ muốn nhấn mạnh tới vai trò tích cực chủ động của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức của CNTD.

– Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân lại là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Vì vậy, cách mạng GPDT muốn giành được thắng lợi cần phải thu phục lôi cuốn được nông dân đi theo, cần phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực của cách mạng. Đồng thời trên cơ sở lien minh công nông phải thu hút, tập hợp được sự tham gia rộng rãi của đông đảo các giai tầng xã hội khác vào trận tuyến đấu tranh của dân tộc.

– Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững phải đi theo học thuyết Mác-Lênin. Đảng phải có đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy sinh chiến đấu vì mục đích của đảng, vì lợi ích và sự tồn vong của dân tộc, vì lí tưởng giải phóng giai cấp công nhân và nhân loại.

– Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải việc của một vài người. Vì vậy cần tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao. Đây là quan điểm cơ bản đầu tiên của NAQ về nghệ thuật vận động quần chúng và tiến hành đấu tranh cách mạng.

Những quan điểm tư tưởng cách mạng trên đây của NAQ được giới thiệu trong các tác phẩm của Người, cùng các tài liệu Mác-xít khác đã theo những đường dây bí mật của ĐCS Pháp để chuyển về trong nước,  đến với các tầng lớp nhân dân VN, tạo ra một xung lực mới, một chất men kích thích phong trào dân tộc phát triển và nhanh chóng chuyển mình theo xu hướng cách mạng mới của thời đại. Cũng từ đây, những người yêu nước VN bắt đầu hướng về NAQ, một lãnh tụ cách mạng thiên tài đang như ngọn hải đăng chỉ đường dẫn lối đưa toàn thể dân tộc và nhân dân đi tới độc lập tự do.

III- Các hoạt động yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài.

1- Phan Bội Châu và các hoạt động yêu nước của người Việt Nam ở Trung Quốc.

Trung Quốc là nước láng giềng, đã trở thành nơi tụ họp và là địa bàn hoạt động của nhiều thế hệ người VN yêu nước. Năm 1912, Phan Bội Châu và các đồng chí của ông đã nhóm họp và quyết định thủ tiêu Duy Tân hội, thành lập tổ chức VN Quang Phục hội, với đường lối đánh đuổi giặc Pháp “khôi phục nước VN, thành lập nền cộng hoà dân quốc VN”. Nhưng rồi VN Quang Phục hội cũng dần dần ta rã trước sự đàn áp khốc liệt của kẻ thù.

Mùa hè 1913, Phan Bội Châu bị bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam tại Quảng Châu. Sau bốn năm, cuối 1917, sau khi được thả ra khỏi tù, Phan Bội Châu dự định về nước phát động cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang, nhưng nghe tin Đức bị thua ở châu Âu, ông chán nản, bi quan. Trong tình cảnh ấy, Phan Bội Châu đã viết Pháp-Việt đuề huề luận(1918). Sự dao động của ông còn tiếp tục được thể hiện trong các tác phẩm như: Dư cửu niên lai sở trì chi chủ nghĩa(1920), Thiên Hồ-Đế Hồ(1923). Tuy nhiên, ông quan niệm, đuề huề chỉ là sách lược. Phan Bội Châu trước sau vẫn là người thực tâm yêu nước, thương dân. Tháng 5/1919, Toàn quyền Xa-rô tìm cách mua chuộc ông bằng tiền bạc và chức tước, nhưng ông kiên quyết chối từ. Năm 1920, trước ảnh hưởng mạnh mẽ của cách mạng tháng Mười Nga, Phan Bội Châu bắt đầu hướng đến một hệ tư tưởng mới-tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Ông đánh giá cao và có cảm tình lớn với cách mạng tháng Mười. Ông viết: “May thay! Đương lúc khói độc mây mù, thình lình có một trận gió xuân thổi tới. Đương giữa lúc trời khuya đất ngủ, thình lình có một tia thái dương mọc ra. Trận gió xuân ấy, tia thái dương ấy, là chủ nghĩa xã hội vậy”. Cuối 1920, Phan Bội Châu đã dịch ra chữ Hán cuốn “Điều tra chân tướng Nga-la-tư” của một tác giả người Nhật, rồi đưa đến giới thiệu với Đại sứ Nga ở Bắc Kinh. Trong cuộc tiếp xúc này ông đã ngỏ ý muốn gửi người VN sang Nga du học. Nhưng những tình cảm và việc làm của ông đối với Cách mạng tháng Mười Nga mới chỉ dừng lại ở bề ngoài, chưa phải bắt nguồn từ những thay đổi căn bản trong nhận thức tư tưởng của ông. Năm 1923, ở Trung Quốc diễn ra sự kiện Quốc Dân đảng và Đảng Cộng sản hợp tác; trước tình hình đó, Phan Bội Châu đã bàn với các đồng chí của mình cải tổ VN Quang Phục hội thành VN Quốc dân đảng, phỏng theo tổ chức Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn.

Ngày 18/6/1924, tại tô giới Sa Diện của Pháp ở Quảng Châu, đã diễn ra cuộc mưu sát Toàn quyền Méc-lanh của Phạm Hồng Thái. Khâm phục tinh thần yêu nước của người thanh niên họ Phạm, Phan Bội Châu đã viết Truyện Phạm Hồng Thái để ca ngợi hành động hi sinh anh hùng đó. Tháng 12/1924, được sự góp ý của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu quyết định cải tổ VN Quốc dân đảng thành một tổ chức yêu nước tiến bộ. Sự kiện ấy chứng tỏ Phan Bội Châu vẫn luôn luôn là một người yêu nước chân thành, thực sự cầu thị, sẵn sàng thay đổi phương châm đường hướng, miễn là đạt được mục đích cuối cùng. Nhưng tiếc thay, ý định tốt đẹp đó chưa thực hiện được, thì Phan Bội Châu đã bị thực dân Pháp bắt vào tháng 6/1925 tại Hàng Châu. Cuối năm đó ông bị kết án tù, rồi đưa về an trí ở Huế. Từ đó trở đi, trong cuộc đời của một người tù bị giam lỏng, bị cách biệt với thực tế cuộc sống bên ngoài, Phan Bội Châu không thể vươn tới một tư tưởng mới, một trào lưu cách mạng mới nữa, tình cảm của ông đối với Cách mạng tháng Mười và Lênin vĩ đại chỉ còn được thể hiện qua việc treo ảnh của Lênin ở giữa nhà, hay viết sách Xã hội chủ nghĩa. Bản thân ông rốt cuộc không tránh khỏi tâm trạng cô quạnh, u buồn, thất vọng của một con người đã bị thời đại vượt qua, và cảm thấy mình bất lực, nhưng vẫn ngày đêm đau đáu một nỗi niềm yêu nước, thương dân.

Sau Chiến tranh TG1, nhiều thanh niên VN đã sang Trung Quốc, mong tìm kiếm con đường cứu nước cứu dân. Tiêu biểu cho lớp thanh niên ấy như: Đặng Xung Hồng, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu… Mùa xuân năm 1923, nhóm thanh niên này lập ra tổ chức Tâm Tâm Xã tại Quảng Châu. Lúc đầu, tổ chức này gồm 7 người là: Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Giản Khanh, Đặng Xung Hồng, Trương Quốc Huy, Lê Cầu, Nguyễn Công Viễn. Đầu năm 1924, Tâm Tâm Xã kết nạp thêm Phạm Hồng Thái và Lê Hồng Phong. Về tôn chỉ mục đích, Tâm Tâm Xã chủ trương “Liên hiệp những người có trí lực trong toàn dân VN, không phân biệt ranh giới đảng phái; miễn là có quyết tâm hi sinh tất cả tư ý và quyền lợi cá nhân, đem hết sức mình tiến hành mọi việc để khôi phục quyền làm người của người VN”. Đường lối chung chung trên đây, chứng tỏ Tâm Tâm Xã chưa có lập trường tư tưởng rõ ràng. Mục tiêu chủ yếu nhất của tổ chức này là đoàn kết tất cả những người yêu nước VN chống Pháp, lập trường chính trị còn non nớt, mơ hồ, nặng về khủng bố ám sát cá nhân.

Để phát huy thanh thế, Tâm Tâm Xã đã đưa người về nước lien lạc với các sĩ phu yêu nước, trong số đó có Lương Văn Can, đồng thời tiến hành phân phát tài liệu ở một số nơi, nhằm gây tiếng vang thức tỉnh đồng bào trong nước. Tâm Tâm Xã cử Phạm Hồng Thái và Lê Hồng Sơn giết Toàn quyền Méc-lanh ở Sa Diện(Quảng Châu); sự việc không thành, Phạm Hồng Thái hi sinh anh dũng trên dòng Châu Giang, còn Lê Hồng Sơn trốn thoát và tiếp tục hoạt động. Sau này, Lê Hồng Sơn gia nhập VN cách mạng thanh niên hội, rồi vào Đảng cộng sản và được phân công làm việc trong Chi hội Việt Nam của Hội lien hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông. Tháng 9/1932, Lê Hồng Sơn bị bắt giam ở nhà lao Vinh, rồi bị đưa về xử tử hình tại quê nhà(làng Xuân Hồ, Nam Đàn, Nghệ An).

Cuộc mưu sát Toàn quyền Méc-lanh không đạt kết quả, nhưng nó đã góp phần thức tỉnh tinh thần yêu nước của hàng vạn đồng bào trong nước. “Tiếng bom của Phạm Hồng Thái đã nhóm lại ngọn lửa chiến đấu…, nó báo hiệu bắt đầu thời đại đấu tranh dân tộc, như chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân”.

2- Phan Châu Trinh và hoạt động yêu nước của người Việt Nam ở Pháp.

Sau 3 năm bị đày ra Côn Lôn vì bị nghi ngờ lien quan đến cuộc vận động chống thuế ở Trung Kì(1908), năm 1911 Phan Châu Trinh cùng con trai (Phan Châu Dật) sang Pháp, mong vận động chính giới Pháp thả các chính trị gia VN bị bắt năm 1908. Năm 1912 ông cùng luật sư Phan Văn Trường lập Hội đồng bào thân ái tại Pháp. Cuối 1917 ông và Phan Văn Trường giúp đỡ NAQ tìm kiếm chỗ ở và việc làm khi NAQ từ Anh sang Pháp và gắn bó với nhau trong những năm tháng tiếp theo khi NAQ hoạt động ở Pháp.

Đầu 1922 Phan Châu Trinh đến Mac-xây, khi đó vua Khải Định được đưa sang Pháp dự cuộc “triển lãm thuộc địa” do thực dân Pháp tổ chức nhằm khuếch trương công lao “khai hoá” của chúng. Trong hoàn cảnh ấy, Phan Châu Trinh đã viết “Thất điều thư” kể 7 tội đáng chém của vua Khải Định (Tôn bậy quyền vua; Thưởng phạt không đúng; Thích quỳ lạy; Ăn tiêu xa xỉ; Ăn mặc lố lăng; Ăn chơi vô độ; Đi Pháp với mục đích không minh bạch). Bức thư đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân, làm Khải Định một phen mất mặt.

Ngoài “Thất điều thư”, Phan Châu Trinh còn tổ chức diễn thuyết để phản đối Khải Định, phản đối chế độ quân chủ và quan trường ở VN. Phan Châu Trinh còn làm hang trăm bài thơ để bộc bạch tâm trạng và lập trường chính trị của mình. Ông vẫn chủ trương đường lối “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” như hồi còn ở trong nước. Trong bức thư gửi cho NAQ đề ngày 18/2/1922, ông khuyên NAQ nên “trở về nơi thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế”. Ông ví mình như “cây già”, “hoa sắp tàn”; còn NAQ như “cây đương lộc”, “nghị lực có thừa, dầy công học hỏi, lí thuyết tinh thông”.

Tháng 6/1925, Phan Châu Trinh được giới cầm quyền Pháp cho về nước theo yêu cầu của ông. Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh cũng cùng về. Hàng ngàn người bao gồm đủ mọi tầng lớp, đông nhất là học sinh, thanh niên, đã ra đón các ông tận cảng Sài Gòn.

Tháng 11/1925, mặc dù đã rất yếu, Phan Châu Trinh vẫn tổ chức nói chuyện với các tầng lớp nhân dân Sài Gòn. Trong bài nói đầu tiên nhan đề “Đạo đức và luân lí Đông, Tây” và bài thứ hai là “Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa”, Phan Châu Trinh tiếp tục đả phá đạo Khổng Nho và chế độ quân chủ, đề cao dân quyền, dân chủ phương Tây. Những tư tưởng đó đặt trong bối cảnh những năm 20 của thế kỷ XX vẫn được coi là mới mẻ, do đó đã được nhiều tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên, nhiệt tình hưởng ứng và ngưỡng mộ.

3- Các hoạt động yêu nước của công nhân và trí thức Việt Nam tại Pháp.

Cùng với hoạt động của nhà yêu nước lớn Phan Châu Trinh, đông đảo Việt kiều tại Pháp đã hăng hái tham gia các hoạt động yêu nước, đưa đón cán bộ, vận chuyển tài liệu sách báo cách mạng về trong nước để tuyên truyền, giác ngộ các tầng lớp nhân dân. Trong số hang vạn công nhân, thuỷ thủ người Việt bị thực dân Pháp đưa sang tham gia chiến tranh TG1, nhờ sự giúp đỡ của ĐCS Pháp, nhiều người đã dần dần được giác ngộ cách mạng, có người còn được đứng trong hang ngũ cộng sản. Một số thuỷ thủ VN đã được NAQ giới thiệu vào hoạt động trong Hội liên hiệp thuộc địa. Họ đã tích cực tham gia đưa các báo Người cùng khổ, Việt Nam hồn đến các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng.

Do được tiếp thu tư tưởng XHCN và các kinh nghiệm đấu tranh ở châu Âu, nhiều trí thức và lao động VN tại Pháp đã dần dần đoàn kết lại trong các tổ chức yêu nước. Năm 1925, “Hội những người lao động trí óc Đông Dương” ra đời. Cuối 1927 ở Mác-xây lại xuất hiện “Hội bênh vực lao động An Nam”, ít lâu sau đổi tên thành “Hội liên hiệp lao động Đông Dương”.

Bên cạnh bộ phận Việt kiều hoạt động thiên về khuynh hướng tả, còn có một nhóm thanh niên, sinh viên xuất thân trong các gia đình địa chủ, tư sản vẫn tiếp tục chủ trương yêu nước trên lập trường dân tộc. Họ lập ra một tổ chức chính trị mang tên Đảng VN độc lập, đồng thời xuất bản báo Tái Sinh làm cơ quan phát ngôn của đảng. Đảng VN độc lập xây dựng được một vài chi bộ ở Pari và các tỉnh xung quanh, còn ở trong nước không có chỗ đứng trong nhân dân.

IV- Các hoạt động của giai cấp tư sản

Giai cấp tư sản VN ra đời sau giai cấp công nhân VN. Trong quá trình hình thành và phát triển, tư sản VN luôn bị tư sản nước ngoài cạnh tranh, chèn ép. Do hoàn cảnh đó, giai cấp tư sản vừa non yếu về kinh tế, vừa bạc nhược về chính trị.

Trước Chiến tranh TG1, tư sản VN chưa phải là một giai cấp, do đó chưa có hoạt động gì nổi bật. Phải đến thời kỳ sau Chiến tranh TG1, tư sản VN mới bước lên vũ đài chính trị và mới tiến hành một số hoạt động mang đặc điểm giai cấp rõ rệt.

1- Phong trào tẩy chay tư sản Hoa kiều(1919)

Bên cạnh sự kìm hãm của tư sản Pháp, tư sản VN còn phải đối phó với sự cạnh tranh của tư sản Hoa kiều. Tư sản Hoa kiều là lực lượng giữ vị trí thứ hai sau tư sản Pháp trong các hoạt động kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu, thầu khoán, mộ phu… ở VN.

Để chống lại thế lực kinh tế của tư sản Hoa kiều, năm 1919 tư sản VN đã dấy lên phong trào “tẩy chay các chú” ở một số thành phố, thị xã như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định… Tại Hà Nội, người ta khuyên nhau không mua hang của “các chú”, tức người Hoa. Tham gia phong trào này, ngoài các nhà tư sản, còn có một số con em các gia đình địa chủ tư sản, học sinh. Họ nêu ra khẩu hiệu “Người An Nam không gánh vàng đi đổ sông Ngô”, “Người An Nam mua bán với người An Nam”…

Trước sự phát triển của phong trào, thực dân Pháp lo sợ, đã vội vàng tìm mọi cách ngăn cản. Sau vài vụ bắt bớ của chính quyền Pháp, phong trào xẹp dần rồi tắt hẳn.

Phong trào tẩy chay “các chú” hay “khách trú” về thực chất chỉ là cuộc đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp giữa tư sản VN và Hoa kiều. Cuộc đấu tranh chứng tỏ mối mâu thuẫn giữa tư sản VN và tư sản nước ngoài đã trở nên gay gắt. Tuy nhiên, mũi nhọn đấu tranh của tư sản VN mới nhằm vào tư sản Hoa kiều, mà chưa dám hướng vào địch thủ trực tiếp là tư bản Pháp.

2- Đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn(1923)

Tiến thêm một bước so với phong trào “tẩy chay các chú”, lần này tư sản VN đã chĩa mũi nhọn đấu tranh vào tư sản Pháp.

Nhằm độc chiếm thị trường, năm 1923 thực dân Pháp mở cuộc vận động tại Hội đồng thuộc địa nhằm trao độc quyền kinh doanh tại cảng Sài Gòn cho một công ti Pháp. Trước quyết định này, giới tư sản và địa chủ Nam kì đã kịch liệt phản đối. Phong trào chống độc quyền cảng Sài Gòn đã diễn ra khá sôi nổi, lôi cuốn được sự tham gia ủng hộ của đông đảo thanh niên trí thức và tiểu tư sản ở Sài Gòn và các tỉnh Nam kì. Một số cuộc mít tinh được tổ chức, nhiều tờ báo còn công khai phản đối quyết định của Hội đồng thuộc địa. Cuộc đấu tranh đã có tiếng vang sang tận nước Pháp, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ ở Pháp.

Do sức ép của phong trào quần chúng cùng dư luận ở VN và Pháp, chính quyền Đông Dương buộc phải tạm hoãn thi hành quyết định của Hội đồng thuộc địa Nam kì.

Như vậy, cuộc đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn đã phản ánh những mâu thuẫn về quyền lợi giữa tư sản VN và tư bản Pháp. Nhưng cuộc đấu tranh này chỉ chống lại một công ti tư bản, chứ chưa phải chống lại toàn bộ ách cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp trên đất nước VN.

3- Hoạt động trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng.

Đi đôi với các hoạt động đấu tranh kinh tế, tư sản VN còn xuất bản báo chí làm cơ quan tuyên truyền cho tư tưởng cải lương chủ nghĩa, đồng thời đấu tranh đòi một số quyền tự do dân chủ trong khuôn khổ chế độ thuộc địa. Hai tờ báo đóng vai trò cơ quan phát ngôn của giai cấp tư sản là “Diễn đàn Đông Dương”(La Tribune Indochinoise) và “Tiếng vang An Nam”(L’ Écho Annamite). Đứng trên lập trường quốc gia cải lương, các tờ báo này tuyên truyền rùm beng cho chủ nghĩa Pháp-Việt đuề huề và tư tưởng trực trị. Tờ Tiếng vang An Nam 8/1920 đã đăng bài viết “Má ơi đến cứu chúng con”, chủ trương dựa vào Pháp để chống lại tư sản Hoa kiều; hay trong bài báo khác năm 1921, tờ Tiếng vang An Nam đặt thẳng vấn đề “quyền làm chính trị” cho các nhà tư sản bản xứ.

Tuy nhiên, tổ chức đại diện đầy đủ nhất cho các quan điểm quốc gia cải lương của giai cấp tư sản là Đảng Lập hiến, ở Nam Kì, được lập năm 1923. Tuy nhiên Đảng này không có hệ thống tổ chức, không Điều lệ và không cán bộ. Những người cầm đầu đảng chủ yếu là các trí thức tư sản, địa chủ và công chức cao cấp như Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Trương Văn Bền… Với tư cách là lãnh tụ của đảng, Bùi Quang Chiêu nêu ra 3 yêu cầu về chính trị là tự do tư tưởng, tự do viết báo bằng tiếng mẹ đẻ, tự do đi lại và hội họp. Hoạt động của Đảng Lập hiến thường hướng vào việc đòi tham gia vào bộ máy chính quyền(Hội đồng thuộc địa, Hội đồng thành phố…), xin nhập quốc tịch Pháp… Năm 1925, Đảng Lập hiến đưa Dân Nguyện cho Toàn quyền Va-ren, nhằm đòi các quyền tự do dân chủ. Nhưng bọn thực dân xảo quyệt, một mặt bố thí một ít quyền lợi để mua chuộc họ, mặt khác vẫn cử người theo dõi để tìm cách đả phá chia rẽ họ với đông đảo nhân dân.

Ngoài Đảng Lập hiến trong Nam, còn có các nhóm Nam Phong của Phạm Quỳnh, nhóm Trung Bắc tân văn của Nguyễn Văn Vĩnh ở ngoài Bắc. Nhóm Phạm Quỳnh nêu lên thuyết “quân chủ lập hiến”, còn nhóm Nguyễn Văn Vĩnh lại đề cao tư tưởng “trực trị” kiểu Canada trong đế quốc Anh…

Nói chung, giai cấp tư sản VN sau Chiến tranh TG1 đã có những cố gắng nhất định trong cuộc đấu tranh chống sự cạnh tranh chèn ép của tư sản nước ngoài. Tuy nhiên, các cuộc đấu tranh này chỉ nhằm thoả mãn các yêu cầu tối thiểu về quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng trong kinh tế và hoạt động chính trị với tư bản Pháp.

V- Cao trào yêu nước và đòi tự do dân chủ ở trong nước.

Chịu tác động của trào lưu tư tưởng mới thông qua các hoạt động của NAQ và đông đảo Việt kiều yêu nước ở Pháp và Trung Quốc, phong trào dân tộc VN sau Chiến tranh TG1 bắt đầu sôi nổi và nhanh chóng chuyển mình sang một giai đoạn mới. Phong trào bắt đầu dấy lên từ năm 1923, rồi phát triển lên tới đỉnh cao vào những năm 1925-1926.

Mở đầu cho phong trào đòi tự do dân chủ là các hoạt động tuyên truyền cách mạng của một số tờ báo tiến bộ ở trong Nam như: Chuông Rạn(La Cloche Fêlée) của Nguyễn An Ninh, tờ An Nam(L’ Annam) của Phạm Văn Trường được in bằng tiếng Pháp. Hai tờ báo An Nam trẻ(Jeune Annam) và Người Nhà quê(Le Nhaque) đã trực tiếp đả kích chế độ thực dân phong kiến, đồng thời bóc trần chủ nghĩa cải lương phản bội lợi ích dân tộc của tầng lớp địa chủ và tư sản thượng lưu. Thêm vào đó, ngay cả các tờ báo của một số người Pháp tiến bộ như Đông Dương(L’ Indochine) của luật sư Monin, tờ Tiếng nói tự do(La Voix Libre) của giáo sư Ganobsky cũng đã lên tiếng tố cáo những hành vi tàn bạo của bọn thực dân đương thời.

Phong trào yêu nước bắt đầu từ trong Nam rồi lan nhanh ra ngoài Bắc và phát triển thành phong trào có tính chất toàn quốc, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Từ trong phong trào yêu nước sôi nổi này đã xuất hiện các tổ chức chính trị của thanh niên trí thức, tiêu biểu là Hội Phục Việt, Đảng Thanh Niên. Được sự tuyên truyền, tổ chức của các đảng này, phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân càng bùng lên mạnh mẽ, trong đó nổi bật nhất là phong trào đòi thả Phan Bội Châu và lễ tang Phan Châu Trinh.

1- Phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu(1925)

Sau khi bắt được Phan Bội Châu 6/1925, thực dân Pháp đưa ông từ Trung Quốc về Hải Phòng, rồi bí mật đưa về giam ở nhà tù Hoả Lò(Hà Nội) dưới một cái tên khác. Trên đường bị giải về nước, Phan Bội Châu đã tìm cách gửi thư cho một người quen là Lâm Lượng Sinh, chủ bút tờ Binh sự tạp chí tại Hàng Châu(Trung Quốc). Ít lâu sau, nhiều tờ báo tiến bộ ở Trung Quốc đã đăng tin Phan Bội Châu bị bắt và kịch liệt công kích hành động bắt người trắng trợn của thực dân Pháp, vi phạm quy chế ngoại giao giữa hai nước. Ở VN, một tờ báo của Pháp(Tin tức Hải Phòng- Le Courrier de Haiphong)cũng đăng tải tin này. Chính vì vậy, mặc dù thực dân Pháp cố tình bưng bít, tin Phan Bội Châu bị bắt đã dần dần lan truyền rộng rãi trong nhân dân.

Việc Phan Bội Châu, một nhà yêu nước lớn của VN bị bắt đã làm chấn động dư luận trong và ngoài nước. Tại Bắc Kì, chi hội Phục Việt do Tôn Quang Phiệt đứng đầu đã rải truyền đơn kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu. Khi Phan Bội Châu được đưa ra xét xử công khai ở Toà Đại hình Hà Nội và bị kết án khổ sai chung than thì làn sóng phản đối lại bùng lên trong cả nước. Nhiều điện văn được gửi tới Toàn quyền Va-ren đòi trả lại tự do cho Phan Bội Châu. Khi Va-ren ra tới Hà Nội, hang ngàn người, nhất là thanh niên, sinh viên, học sinh, đã xuống đường biểu tình, giương cao biểu ngữ, phân phát truyền đơn yêu cầu nhà đương cục phải thả Phan Bội Châu. Các tờ báo ở cả VN và Pháp đều đưa tin khá đầy đủ về vụ án Phan Bội Châu. Có những tờ đơn kháng cáo còn được gửi đến tận Hội Quốc Liên, Toà án Quốc tế La-Hay(La Haye), Nghị viện Pháp đòi huỷ bỏ bản án cho Phan Bội Châu.

Trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng, cuối cùng thực dân Pháp buộc phải ân xá cho cụ Phan và đưa cụ về “an trí” tại Huế dưới sự kiểm soát ngày đêm của bọn mật thám. Từ đó, Phan Bội Châu phải sống những năm tháng cuối cùng trong cuộc đời của một người tù bị giam lỏng, cách biệt với thực tiễn cách mạng bên ngoài. Cụ đã trút hơi thở cuối cùng tại đó vào ngày 29/10/1940 trong niềm tiếc thương vô hạn của đồng bào cả nước.

2- Đám tang Phan Châu Trinh(1926)

Từ sau hai cuộc nói chuyện với nhân dân thành phố Sài Gòn vào cuối tháng 11/1925, Phan Châu Trinh lâm bệnh nặng. Bốn tháng sau, 24/3/1926, ông mất tại Sài Gòn. Cũng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng là một nhà yêu nước nhiệt thành. Ông là nhà dân chủ lớn và tiêu biểu nhất ở nước ta đầu thế kỷ XX. Tên tuổi và sự nghiệp của ông gắn liền với một giai đoạn sôi động của phong trào GPDT. Đồng bào, đồng chí vẫn luôn kính trọng, khâm phụ ý chí và tình cảm yêu nước của ông, Vì vậy, khi được tin ông mất, nhân dân trong cả nước đã ngậm ngùi thương tiếc, tổ chức lễ truy điệu ở khắp nơi.

Tại Sài Gòn, đám tang Phan Châu Trinh được tổ chức trọng thể với các nghi lễ của một quốc tang. Một Hội đồng tang lễ gồm 16 người được thành lập bao gồm đại diện của Đảng Lập hiến và Đảng Thanh niên. Đông đảo học sinh, sinh viên, trí thức và lao động đã đến đưa tang vĩnh biệt nhà ái quốc. Đám tang Phan Châu Trinh ở Sài Gòn đã thu hút gần 14 vạn người tham gia.

Tại Huế, trong buổi lễ truy điệu cụ Phan, cũng có tới hang trăm người tham dự, chủ tế là Phan Bội Châu. Trong bài văn tế, Phan Bội Châu đã viết với một tình cảm chân thành, thắm thiết nghĩa tình anh em đồng chí.

Không chỉ ở Huế, mà trên khắp mọi miền đất nước, từ trong Nam ra ngoài Bắc, từ trường học đến xưởng thợ, đâu đâu cũng tổ chức truy điệu và để tang Phan Châu Trinh. Hoảng sợ trước sự phát triển rầm rộ của phong trào, thực dân Pháp đã tìm cách phản công lại. Chúng ra lệnh cấm tổ chức lễ truy điệu Phan Châu Trinh trong các nhà trường. Học sinh liền bãi khoá, bỏ học để phản đối. Nhiều cuộc bãi công, bãi thị cũng nổ ra. Rõ rang, đám tang Phan Châu Trinh đã trở thành một dịp để quần chúng nhân dân thể hiện tinh thần yêu nước và biểu dương lực lượng, đòi các quyền tự do dân chủ.

3- Đón tiếp Bùi Quang Chiêu và đấu tranh đòi thả Nguyễn An Ninh.

Bùi Quang Chiêu là một kỹ sư canh nông, lãnh tụ Đảng Lập hiến, một đảng đại diện cho quyền lợi và quan điểm chính trị của các tập đoàn đại địa chủ và tư sản mại bản ở Nam Kì. Năm 1925, ông sang Pháp để vận động chính giới Pháp ban hành các quyền tự do dân chủ cho Đông Dương.

Cuộc vận động đã không đạt kết quả. Bùi Quang Chiêu về nước, cập cảng Sài Gòn chiều 24/3/1926. Nhân dịp này, Đảng Thanh Niên chủ trương tổ chức cuộc đón tiếp Bùi Quang Chiêu, rồi phát động thành một cuộc biểu dương lực lượng của quần chúng nhân dân đòi các quyền tự do dân chủ, chĩa mũi nhọn vào bọn thực dân phản động nhất lúc bấy giờ, đứng đầu là tên thực dân Utơrây(Outrey). Cuộc biểu tình đã thu hút hang vạn người tham gia. Trước sức mạnh xuống đường của quần chúng, Đảng Lập hiến và Bùi Quang Chiêu rất hoảng sợ, đã thoả hiệp với Pháp. Trong bữa tiệc chiêu đãi tối hôm đó, Bùi Quang Chiêu tuyên bố trung thành với chủ nghĩa Pháp-Việt đuề huề và phản đối bạo động. Biết rõ ý đồ phản bội của Bùi Quang Chiêu, quần chúng, nhất là thanh niên học sinh, đã chuyển sang đả đảo Bùi Quang Chiêu, đả đảo chủ nghĩa Pháp-Việt đuề huề của Đảng Lập hiến.

Cùng ngày Bùi Quang Chiêu về nước, lại xảy ra sự kiện bắt giam Nguyễn An Ninh, một nhà báo có uy tín lớn trong giới thanh niên và trí thức lúc bấy giờ. Nguyễn An Ninh tốt nghiệp đại học ngành luật ở Pháp, về nước 1925, nhưng không chịu hợp tác với chính quyền Pháp. Không những thế, ông còn dùng báo chí để đả kích chế độ thực dân ở Đông Dương. Vì vậy, Nguyễn An Ninh đã bị thực dân Pháp bắt, kết án 20 năm tù. Trước tình hình đó, Đảng Thanh Niên đã phát truyền đơn kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi thả Nguyễn An Ninh. Một cuộc Tổng đình công đã được dự định tổ chức ở khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn. Tại một vài nơi như Ngân hàng Đông Dương, hãng cao su Lápbê(Labbé), công nhân và viên chức đã nghỉ việc để phản đối chính sách của Pháp. Để đối phó lại, Pháp ra tay đàn áp những người đấu tranh, ngăn ngừa cuộc tổng đình công và tiến hành bắt bớ nhiều đảng viên Thanh Niên là lực lượng lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh của quần chúng. Do bị đàn áp dữ dội, khí thế đấu tranh của quần chúng bị xẹp xuống, rồi lắng dần.

4- Phong trào văn hoá tiến bộ

Trong những năm thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, cùng với sự mở mang, phát triển của các đô thị, thì các phương tiện, cơ sở in ấn, xuất bản cũng xuất hiện khá nhanh; các tầng lớp nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ ngày càng đông đảo hơn so với trước.

Trong cao trào đòi tự do dân chủ, nhiều trí thức tiến bộ đã trở thành người khởi xướng, tổ chức và lãnh đạo các cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân. Họ dùng báo chí làm công cụ đấu tranh, đồng thời để bộc lộ các quan điểm chính trị của mình. Vì vậy, sau những năm 20, hoạt động báo chí, văn hoá đã diễn ra khá sôi nổi trên cả nước.

Ở Nam Kì, một số trí thức chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản đã lên tiếng phản đối những tên quan cai trị tàn ác và đòi nhà cầm quyền phải thi hành các cải cách dân chủ cho nhân dân. Họ đứng ra xuất bản một số tờ báo tiếng Pháp, tiêu biểu như tờ “La Tribune Indigène” (Diễn đàn bản xứ) của Nguyễn Phú Khai-Bùi Quang Chiêu; “La Tribune Indochinoise” (Diễn đàn Đông Dương) và “L’ Écho Annamite” (Tiếng vang Annam) của Đảng Lập hiến.

Khác với tư tưởng quốc gia cải lương của các tờ báo trên, hai tờ báo “Chuông rạn”(La Cloche Fêlée) của Nguyễn An Ninh và “An Nam”(L’ Annam) của Phan Văn Trường đã kịch liệt đả phá chế độ thực dân, công khai chống lại chủ nghĩa Pháp-Việt đuề huề. Ngoài ra, báo còn trích đăng một số bài trên báo “Nhân đạo” của Đảng Cộng sản Pháp, giới thiệu những tài liệu có lien quan đến Cách mạng tháng Mười Nga và Chủ nghĩa xã hội. Cùng với khuynh hướng này, còn có các tờ “Jeune Annam”(An Nam trẻ) và “Le Nhaque”(Người nhà quê) của Nguyễn Khánh Toàn.

Bên cạnh các tờ báo in bằng tiếng Pháp, còn xuất hiện nhiều tờ báo tiếng Việt, như: Thực nghiệp dân báo, Hữu Thanh của Tản Đà-Nguyễn Khắc Hiếu ở Hà Nội; Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng ở Huế; Pháp-Việt nhất gia của Trần Huy Liệu-Lê Thanh Lực ở Sài Gòn.

Các tờ báo trên đều phản ánh nguyện vọng về tự do dân chủ của quần chúng, tuyên truyền tư tưởng, văn hoá tiến bộ, kịch liệt chống lại chủ nghĩa Pháp-Việt đuề huề.

Cùng với các hoạt động báo chí, một số trí thức trẻ còn thành lập các đại lí hoặc cơ sở xuất bản, mua bán các tài liệu, sách báo có tư tưởng yêu nước. Tiêu biểu như Nam Đồng thư xã của Phạm Tuấn Tài-Phạm Tuấn Lâm ở Hà Nội; Quan Hải tùng thư của Đào Duy Anh ở Huế; Cường học thư xã của Trần Huy Liệu ở Sài Gòn.

Các tác phẩm nổi tiếng như Chiêu hồn nước của Phạm Tất Đắc, Tiếng quốc kêu của Việt Quyên, Một bầu tâm sự của Trần Huy Liệu… đã phần nào phản ánh được nguyện vọng tự do, dân chủ, nhân đạo, yêu nước của nhân dân ta, và được đông đảo thanh niên hâm mộ tìm đọc.

Với những hoạt động nói trên, phong trào văn hoá tiến bộ đã trở thành một chất men, một động lực quan trọng của cao trào đấu tranh yêu nước, đòi tự do dân chủ những năm 1925-1926 ở nước ta.

VI- Phong trào công nhân

Sau Chiến tranh TG1, điều kiện sinh hoạt vật chất của công nhân VN vẫn hết sức thấp kém. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai chỉ chú ý mở rộng vốn và quy mô sản xuất, không tăng cường các phương tiện máy móc và không cải thiện các điều kiện làm việc cho công nhân. Tình trạng ăn, ở của công nhân, nhất là ở các đồn điền, hầm mỏ rất thấp kém. Thêm vào đó, thời gian làm việc thường kéo dài từ 9 – 10 giờ/ngày. Có nơi như khu dệt Nam Định, ngày công của công nhân được quy định bình quân là 12h/ngày. Công nhân không được hưởng bất kì một chế độ bảo hiểm thân thể nào. Tiền lương của công nhân rất thấp. Chẳng hạn, lương công nhật của công nhân dệt ở Nam Định từ 0,25-0,35 đồng; ở mỏ than Hồng Gai từ 0,3-0,4 đồng. Bình quân thu nhập hang tháng của một công nhân được khoảng 10 đồng. Trong khi đó, lương tháng của một công chức(thư kí, kế toán) từ 30-40 đồng. Ngoài đồng lương rẻ mạt, điều kiện lao động cực khổ, công nhân còn bị đánh đập, ngược đãi như nô lệ. Tình hình đó dẫn tới cuộc sống cùng quẫn, thậm chí dẫn đến cái chết của nhiều công nhân. Chính cảnh sống cùng cực ấy đã thúc đẩy công nhân hăng hái đứng lên đấu tranh chống áp bức bóc lột và cường quyền.

Sau Chiến tranh TG1, thông qua hoạt động của lãnh tụ NAQ và nhiều người VN yêu nước khác, các sách báo cách mạng bắt đầu được truyền bá vào trong nước. Các tờ báo Người cùng khổ, Việt Nam hồn… cũng như các tác phẩm của chủ nghĩa Mác-Lênin đã lọt qua lưới sắt của thực dân Pháp, đến với giai cấp công nhân và nhân dân VN. Cũng vào thời kì sau Chiến tranh TG1, nhiều thuỷ thủ, lính thợ VN được hồi hương, mang theo các hiểu biết mới, tư tưởng mới và cả các kinh nghiệm đấu tranh của những người anh em đồng chí ở châu Âu về nước. Nhờ vậy giai cấp công nhân VN mới bắt đầu biết tới Cách mạng tháng Mười, biết đến Lênin-lãnh tụ của cách mạng thế giới, trên cơ sở đó dần dần tiếp thu ánh sang của chủ nghĩa cộng sản. Ánh sang cách mạng ấy đã thôi thúc, lôi cuốn công nhân VN vùng dậy đấu tranh, trước hết là chĩa mũi nhọn vào bọn tư bản thực dân Pháp.

Từ Chiến tranh TG1, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân VN phát triển ngày càng rầm rộ, sôi nổi. Hình thức đấu tranh thấp nhất của công nhân là bỏ việc và phá giao kèo. Trong khoảng từ 1919-1925, số công nhân bỏ trốn hoặc phá giao kèo với chủ đã lên tới 4.877 người. Càng ngày, công nhân càng sử dụng các hình thức đấu tranh đặc thù của mình là Bãi Công, mặc dù hình thức đấu tranh này bị ghép vào tội “phá rối trị an” và bị kết án tù. Theo thống kê của chính quyền Pháp, từ 1920-1925 đã nổ ra 25 cuộc bãi công, đó là chưa kể những cuộc lãn công, đưa yêu sách cho chủ, hò reo chống đánh đập…

Năm 1919 nổ ra cuộc bãi công của công nhân thuỷ thủ tàu Sác-nô (Sharnhort) đậu ở cảng Hải Phòng đòi tăng lương và chống việc thực dân Pháp đưa binh lính VN sang đàn áp cách mạng Xi-ri. Năm 1920, trên 200 thuỷ thủ của 5 chiếc tàu Pháp ở cảng Hải Phòng đã bãi công đòi phụ cấp đắt đỏ.

Một sự kiện lớn có ảnh hưởng đến sự phát triển của phong trào công nhân VN, đó là vào năm 1921, Liên đoàn công nhân tàu biển ở Viễn Đông đã được thành lập và phát triển các cơ sở ở Ma-cao, Thượng Hải(Trung Quốc). Một số công nhân, thuỷ thủ VN làm việc trên các hãng tàu của Pháp đã gia nhập Liên đoàn này. Họ đã có nhiều đóng góp trong việc đưa đón cán bộ, vạn chuyển các sách báo cách mạng từ Pháp về trong nước.

Từ năm 1922, phong trào công nhân bắt đầu có nét khởi sắc mới. Đáng chú ý nhất là cuộc bãi công của 600 công nhân thợ nhuộm ở Sài Gòn-Chợ Lớn. NAQ đánh giá cuộc bãi công đó như là “dấu hiệu của thời đại” mới, “lần đầu tiên một phong trào như thế đã nhóm lên ở thuộc địa”. Nét mới đó còn được lộ rõ hơn trong cuộc bãi công của 250 công nhân nhà máy sợi Nam Định tháng 9/1924. Trong bản báo cáo của Đờ Mayna(De Maynard) gửi cấp trên, y viết: “Không còn nghi ngờ gì nữa, bọn cai và thợ chuyên môn… biết rằng bãi công là một vũ khí dũng mãnh trong tay những người làm công”.

Năm 1925, phong trào công nhân đã có sự phát triển nhảy vọt, với việc xuất hiện nhiều cuộc bãi công có quy mô lớn, có tổ chức và lãnh đạo ở một mức độ nhất định. Trong đó điển hình nhất là cuộc bãi công của 1000 công nhân Ba Son(Sài Gòn) vào tháng 8/1025.

Gắn liền với cuộc bãi công này là vai trò tổ chức của Tôn Đức Thắng. Sauk hi tham gia cuộc binh biến ở Hắc Hải, năm 1920, Tôn Đức Thắng về nước và xin làm công nhân ở Sài Gòn. Chính trong năm này, ông đã bí mật thành lập tổ chức Công hội đầu tiên ở thành phố Sài Gòn. Năm 1925, Tôn Đức Thắng đã cùng một số công nhân khác đứng ra tổ chức cuộc bãi công ở Ba Son.

Xưởng Ba Son được thành lập từ năm 1864, là cơ sở chuyên đóng và sửa chữa tàu thuỷ vào loại lớn nhất của thực dân Pháp ở VN. Tại đây, công nhân được hưởng một số chế độ ưu đãi hơn các nơi khác, như được hưởng ngày làm 8h, lương cao, công việc cũng ít vất vả hơn; vào kì lĩnh lương hàng tháng, công nhân được nghỉ việc trước 30 phút. Nhưng từ khi viên đốc công mới tên là Cuôcxian(Courtial) sang làm việc, lệ nghỉ trước giờ vào ngày lĩnh lương bị bãi bỏ. Đây là cái cớ để những người lãnh đạo vận động công nhân đứng dậy đấu tranh.

Mục đích của cuộc bãi công Ba Son là nhằm giữ lại chiếc tàu Misơlê (Michelet) được đưa đến sửa chữa ở xưởng Ba Son, không cho Pháp chuyên chở binh lính sáng đàn áp cách mạng Trung Quốc. Ngày 4/8/1925, cuộc bãi công bùng nổ với yêu sách “đòi tăng lương 20%, đòi thợ bị đuổi việc trở lại làm việc, đòi giữ lệ nghỉ trước nửa giờ vào ngày lĩnh lương”. Để đảm bảo thắng lợi, Ban lãnh đạo Công hội đã vận động công nhân viên chức các nhà máy, công sở trong thành phố ủng hộ công nhân Ba Son. Sau 8 ngày đấu tranh và nghỉ việc, cuộc bãi công Ba Son đã giành được thắng lợi. Kết quả là các nhà chức trách Pháp đã phải chấp nhận tăng lương 10% cho công nhân, thoả mãn các yêu sách khác, đồng thời trả lương cả những ngày bãi công. Ngày 12/8/1925, công nhân trở lại làm việc, nhưng vẫn tiếp tục lãn công, khiến cho việc sửa chữa chiếc tàu Misơlê đến mãi 28/11/1925 mới hoàn thành, và khi nó lên đường sang Trung Quốc thì cuộc đấu tranh của công nhân và thuỷ thủ bên đó đã kết thúc thắng lợi.

Rõ ràng, cuộc bãi công Ba Son năm 1925 là cuộc bãi công đầu tiên có tổ chức và có lãnh đạo. Cuộc bãi công này không chỉ nhằm vào mục tiêu kinh tế, mà cao hơn nữa còn nhằm vào mục đích chính trị, thể hiện tình đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế của công nhân VN với những người anh Trung Quốc. Bằng các việc làm của mình, cuộc bãi công Ba Son đã cắm một mốc rất quan trọng trong phong trào công nhân – giai đoạn công nhân VN bắt đầu đi vào đấu tranh có tổ chức và có mục đích chính trị rõ ràng.

(Xem tiếp Chương IX)

Chương VII: Tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ Nhất

Tháng Bảy 11, 2009

I- Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 của thực dân Pháp và những biến đổi trong nền kinh tế Việt Nam

1- Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 của thực dân Pháp

– Sau chiến tranh TG1, Pháp tuy thắng trận, nhưng phải chịu nhiều tổn thất về kinh tế-tài chính. Chiến tranh phá huỷ nhiều nhà máy, đường sá, cầu cống, làng mạc của Pháp; nhiều ngành sản xuất công nghiệp bị đình trệ; thương mại giảm sút; nước Pháp trở thành con nợ lớn, nhất là của Mĩ, năm 1920 nợ 300 tỉ Phơ-răng. Chiến tranh tiêu huỷ hang triệu Phơ-răng đầu tư của Pháp ở nước ngoài, điển hình cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đã làm mất thị trường đầu tư lớn nhất của Pháp tại châu Âu. Các vấn đề lạm phát, tăng giá và đời sống khó khăn của các tầng lớp lao động đã làm trỗi dậy các phong trào đấu tranh chống chính phủ.

– Trong hoàn cảnh trên, để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục nền kinh tế, chính phủ Pháp một mặt ra sức khôi phục kinh tế trong nước, một mặt tăng cường đầu tư, khai thác thuộc địa, trước hết và chủ yếu tại Đông Dương và châu Phi.

– Về thời gian, đợt khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân Pháp chính thức được triển khai từ sau Đại chiến TG1 và kéo dài đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế TG 1929-1933, tức là trong khoảng 10 năm.

– Tốc độ và quy mô đầu tư của thực dân Pháp trong đợt khai thác thuộc địa lần 2 ồ ạt và rộng hơn nhiều lần so với đợt khai thác lần 1. Số vốn đầu tư tăng nhanh qua các năm; riêng năm 1920 đầu tư đạt 225 tỉ Phơ-răng. Nếu giai đoạn 1888-1918 Pháp mới đầu tư khoảng 1 tỉ Phơ-răng vào toàn Đông Dương(chủ yếu ở VN), thì chỉ trong giai đoạn 1924-1929 số vốn đầu tư đã lên đến 4.000 triệu Phơ-răng. Từ 1931 dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế TG, tư bản Pháp vẫn tiếp tục đầu tư vốn vào VN.

– Về hướng(lĩnh vực) đầu tư trong đợt KTTĐL2 cũng khác với KTTĐL1. Nếu đợt KTTĐL1 tư bản Pháp chủ yếu đầu tư vào khai mỏ và giao thông vận tải; thì KTTĐL2 tư bản Pháp đổ xô vào kinh doanh nông nghiệp, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh khai thác khoáng sản.

=> Chính sách tăng cường đầu tư khai thác thuộc địa trên đây của thực dân Pháp đã làm biến đổi mạnh mẽ cơ cấu và trình độ phát triển của các ngành kinh tế VN sau CTTG thứ nhất.

2- Những biến đổi trong nền kinh tế Việt Nam

– Nông nghiệp: là ngành được TDF chú trọng đầu tư khai thác hơn tất cả các ngành khác trong đợt KTTĐL2. Nếu 1924 thực dân Pháp đầu tư 52 triệu Phơ-răng thì đến 1927 đã đầu tư 400 triệu Phơ-răng, ra sức cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền. Đến 1930, tổng số RĐ TDF chiếm đoạt lên đến 1,2 triệu ha.

Hầu hết đồn điền đều chủ yếu trồng lúa và 1 số loại cây công nghiệp như chè, cà phê, cao su… Tại các đồn điền trồng lúa, phương thức canh tác và bóc lột của địa chủ Pháp-Việt vẫn chủ yếu theo kiểu phong kiến(cho mướn RĐ-thu tô thuế), các biện pháp kỹ thuật ít được áp dụng, năng suất lúa rất thấp so với các nước(11-12 tạ/năm; Xiêm 18 tạ/năm; Malaixia 21 tạ/năm)

Do nhu cầu thị trường TG sau chiến tranh, nhất là Pháp, giá cao su tăng lên nhanh chóng, do đó các nhà tư bản Pháp đổ xô vào kiếm lời trong kinh doanh cao su. Chỉ tính 2 năm 1927-1928, các đồn điền cao su được đầu tư 600 triệu Phơ-răng. Diện tích đồn điền cao su mở rộng không ngừng: năm 1919, diện tích là 15.850ha; 1925 là 18.000ha; 1930 là 78.620ha. Các hoạt động kinh doanh cao su tập trung chủ yếu quanh 3 công ti lớn là: Công ti đất đỏ, Công ty trồng cây nhiệt đới, Công ty Michelin. Sản lượng mủ cao su ngày càng tăng: năm 1919 là 3.500 tấn; 1924 là 6.796 tấn; năm 1929, riêng số cao su xuất khẩu là 10.000 tấn.

Bên cạnh đó, nhiều đồn điền chè, cà phê cũng được xây dựng ngày 1 nhiều và mở rộng diện tích, nhất là thời gian sau 1924. Đến 1930, TDF có khoảng 10.000ha cà phê, 3.000ha chè, ngoài ra còn có hang nghìn hecta dùng trồng mía, bong, hồ tiêu…

Tuy nhiên, tốc độ phát triển trung bình của nông nghiệp VN thời này vẫn thấp, khoảng 1,4%/năm; riêng Nam Kỳ, có tốc độ phát triển cao hơn, khoảng 8,5%/năm trong giai đoạn những năm 20. Chỉ tính từ 1926-1930, các tỉnh Nam Kỳ đã thu hoạch được 3.360 nghìn tấn lúa, trong đó một phần được xuất khẩu ra thế giới. Những năm 20, lúa là mặt hang xuất khẩu chủ lực, chiếm khoảng 60-70% giá trị(năm 1880 xuất 240.000 tấn gạo; 1928 xuất 1.700.000 tấn gạo), VN là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, sau Malaixia.

– Công nghiệp: cũng được tăng cường vốn đầu tư và mở rộng quy mô sản xuất. Tư bản Pháp tiếp tục gia tăng tốc độ đầu tư khai mỏ, nhất là mỏ than(năm 1911 diện tích mỏ là 6 vạn ha; năm 1930 là 43 vạn ha, gấp 7 lần).     Những năm 20, nhiều công ti khai mỏ mới được thành lập như: Công ti than Hạ Long, Đồng Đăng, Tuyên Quang, Đông Triều, Công ti than và mỏ kim khí Đông Dương… Sản lượng than khai thác tăng qua các năm: năm 1919 đạt 665.000 tấn; năm 1929 đạt 1.972.000 tấn, gấp 3 lần.

Bên cạnh than, các mỏ thiếc, kẽm, sắt… đều được bổ sung thêm vốn, nhân công và đẩy mạnh tiến độ khai thác: so với trước chiến tranh TG1, sản lượng thiếc tặng gấp 3 lần; kẽm 1,5 lần; vonfram 1,2 lần. Riêng năm 1928, tư bản Pháp đã khai thác được ở VN gần 2 triệu tấn than, 21.000 tấn kẽm, 250 tấn chì, 105 tấn vonfram, 20 tấn phốt phát, trên 150 nghìn tấn muối.

Tổng giá trị các loại quặng khoáng sản đã khai thác từ 1923 – 1929 tăng gấp 2 lần, đạt 18,6 triệu đồng(tương đương trên 200 triệu Phơ-răng). Số quặng khai thác được chủ yếu để xuất khẩu(năm 1929 Pháp xuất khẩu 1,3 triệu tấn than, chiếm 65% sản lượng khai thác, tăng gấp 2 lần 1913).

Để phục vụ ngành khai khoáng, một số cơ sở chế biến quặng, đúc kẽm, thiếc… đã được thành lập tại Quảng Yên, Hải Phòng, Cao Bằng… để sơ chế khoáng sản để xuất khẩu hoặc phục vụ công nghiệp chính quốc.

Công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến thời kỳ này cũng khá phát đạt, như: xi măng Hải Phòng; các nhà máy tơ-sợi-dệt ở Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Sài Gòn; các nhà máy xay xát gạo, chế biến rượu, làm đường ở Hải Dương, Hà Nội, Nam Định, Chợ Lớn… đều được nâng cấp và mở rộng quy mô sản xuất.

Tuy nhiên, một ngành công nghiệp nặng(luyện kim, cơ khí)với đầy đủ tính chất của nó, chưa thật sự ra đời. Công nghiệp VN vẫn là 1 nền công nghiệp dịch vụ và phục vụ(chủ yếu sản xuất hang tiêu dùng và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chính quốc)nên chịu lệ thuộc nặng nề vào thực dân Pháp và thị trường nước ngoài.

Giao thông vận tải tiếp tục được tăng cường đầu tư vốn và các trang thiết bị kỹ thuật để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa. Chính quyền thực dân cho xây dựng một số tuyến đường sắt xuyên Đông Dương như: Vinh-Đông Hà, Đồng Đăng-Na Sầm. Đến 1931, Pháp xây dựng được 2389 km đường sắt trên lãnh thổ VN. Đường bộ, bao gồm đường liên tỉnh và nội tỉnh, cũng được đẩy nhanh tiến độ xây dựng, cho đến 1930 đạt gần 15.000km, trong đó đường nhựa thì mới chỉ đạt vài nghìn km. Các cảng Hải Phòng, Sài Gòn được nạo vét và củng cố nhà kho, bến bãi; một số cảng mới như Hòn Gai, Bến Thuỷ… được xúc tiến xây dựng. Mạng lưới giao thông thuỷ trên các sông Hồng, Cửu Long tiếp tục được khai thác. Nhìn chung, những năm 30-40 của thế kỷ XX, Đông Dương là một trong những nơi có hệ thống giao thông tốt nhất ở Đông Nam Á.

– Thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương, có bước tiến rõ rệt so với trước. Sau các đạo luật thuế quan vào các năm 1887, 1892, 1910, 1913, năm 1928 chính quyền thực dân ra thêm một nghị định mới nhằm đánh thuế nặng vào các hàng của nước ngoài, nhất là hàng Trung Quốc và Nhật Bản, qua đó thực hiện độc quyền thương mại, giúp hang hoá Pháp tràn ngập thị trường VN(trước thế chiến I hàng Pháp chiếm 37%, những năm 1929-1930 hàng Pháp chiếm đến 63% tổng số hang nhập khẩu). Cán cân thương mại thời kỳ này khá ổn định, thậm chí có xu hướng xuất siêu(trong giai đoạn 1928-1932 chỉ có 1 năm nhập siêu còn lại 4 năm xuất siêu, riêng 1928 giá trị xuất siêu đạt trên 50 triệu đồng). Tổng giá trị hang hoá xuất nhập khẩu tăng nhanh(năm 1920 giá trị xuất đạt 318 triệu, năm 1928 xuất đạt 550 triệu đồng). VN được tăng cường mở rộng quan hệ buôn bán với các nước Anh, Đức, Mĩ, Italia và một số nước trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á như Thái Lan, Trung Quốc, Xinhgapo, Hồng Kông. Tuy nhiên bạn hang chính của VN vẫn là Pháp(giai đoạn 1911-1920 hàng Pháp và các thuộc địa của Pháp chiếm 29,6%; giai đoạn 1921-1930 chiếm 43,2%). Nhìn chung trong 1 giai đoạn khá dài, VN và Đông Dương đóng vai trò “người điều chỉnh” thương mại chính quốc. Hàng hoá VN bán ra ngoài chủ yếu gồm gạo, khoáng sản, chè, cao su, cà phê, hạt tiêu(năm 1932, riêng giá trị gạo chiếm trên 60% tổng giá trị xuất khẩu của VN). Hàng hoá Pháp sang VN gồm hàng tiêu dùng và phục vụ sinh hoạt như: vải, bong sợi, giày dép, rượu, thuốc lá, ôtô; các thiết bị máy móc phục vụ phát triển công nghiệp hầu như không được nhập vào(ví dụ năm 1929, riêng giá trị rượu nhập vào VN là 63 triệu Phơ-răng, trong khi đó giá trị máy nông nghiệp nhập chỉ là 2,4 triệu).

Nội thương cũng phát triển hơn so với trước; quan hệ giữa các tỉnh, các miền của VN cũng được đẩy mạnh. Người Pháp vẫn độc quyền mua-bán về rượu, muối và thuốc phiện. Nhìn chung các hoạt động mua bán lớn của VN đều nằm trong tay người Pháp và Hoa Kiều.

– Ngân hang Đông Dương nắm vai trò tổ chức và chi phối các hoạt động kinh tế-tài chính ở VN. Ngoài việc độc quyền phát hành giấy bạc và cho vay lãi, ngân hang Đông Dương còn trực tiếp quản lí và chỉ đạo hoạt động của các chi nhánh ở các ngành, các tỉnh. Giai đoạn 1925-1930 ngân hang Đông Dương phát triển thêm 19 Nông phố Ngân hang ở khắp các tỉnh Bắc, Trung, Nam, qua đó phát triển việc cho vay lãi nặng và can thiệp sâu vào đời sống nông thôn VN.

Đánh giá cuộc khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân Pháp ở VN không chỉ dừng lại ở góc độ tăng cường đầu tư vốn và mở rộng quy mô khai thác, mà còn phải đánh giá ở góc độ yếu tố kỹ thuật và nhân tố con người. Tuy nhiên, cuộc khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân Pháp chỉ là sự mở rộng, nhân lên của tình trạng sản xuất lạc hậu trong các cơ sở kinh tế; số máy móc và tiến bộ kĩ thuật được áp dụng cực kỳ hạn chế và ít ỏi trong sản xuất.

Do đó, đặc điểm nổi bật của toàn bộ cơ cấu kinh tế VN thời thuộc địa là sự phát triển mất cân đối: nền nông nghiệp nặng nề, cổ hủ, bên cạnh nền công nghiệp mỏng manh, yếu ớt; trong công nghiệp, ngành khai mỏ chiếm phần lớn, các ngành khác như hoá chất, luyện kim, cơ khí, năng lượng… thì hầu như không phát triển.

Tính chất mất cân đối, lệch lạc còn thể hiện qua quan hệ giữa các vùng, miền trong cả nước. Miền Bắc và miền Nam, kinh tế còn ít nhiều phát triển; riêng miền Trung, chỉ trừ một vài chuyển biến có tính chất cục bộ ở Vinh-Bến Thuỷ, Quảng Nam-Đà Nẵng…, còn lại các nơi khác hầu như vẫn nguyên trạng trong nghèo nàn, lạc hậu; các khu vực miền núi hầu như không có chuyển biến gì, người dân vẫn chủ yếu du canh du cư, sống phụ thuộc chủ yếu vào việc tận dụng các sản vật của thiên nhiên.

II- Chính sách chính trị, xã hội và văn hoá của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất.

Những biến đổi của xã hội VN trước hết chịu sự chi phối của quá trình phát triển kinh tế, đồng thời còn trực tiếp chịu ảnh hưởng của các chính sách xã hội do chính quyền thực dân-phong kiến thi hành.

1- Chính sách “cải lương hương chính”

Nhằm mục đích can thiệp trực tiếp vào các làng, xã, từ năm 1904 thực dân Pháp bắt đầu thực hiện quá trình “cải lương hương chính” với ý đồ đưa tầng lớp tân học lên cầm quyền thay tầng lớp cựu học. Tuy nhiên, từ nghị định đầu tiên vào 27/8/1904 ở Nam Kì, phải mất 17 năm sau, đến 12/8/1921 thực dân Pháp mới ban hành được nghị định tiếp theo để thực hiện trên đất Bắc Kì. Công cuộc cải lương hương chính tiếp tục được thực hiện ở hai miền với các nghị định 25/2/1927 của Thống sứ Bắc Kì và nghị định 30/10/1927 của Toàn quyền Đông Dương.

Chủ trương chung của thực dân Pháp là tiếp tục sử dụng giai cấp địa chủ và tay sai người Việt vào việc cai trị. Các thành phần này ở bên trên chỉ là những kẻ có chức nhưng không có quyền hành gì đáng kể. Bộ phận đắc lực là guồng máy tay sai ở các cấp dưới, chủ yếu làm nhiệm vụ thừa hành mệnh lệnh của cấp trên. Ngoài bộ phận tay sai cũ được suy trì và cải tạo để sử dụng, Pháp tăng cường đào tạo lực lượng mới để bổ sung và củng cố cho bộ máy chính quyền của chúng. Chính sách này có hiệu lực ở mức độ nhất định, còn bộ phận rộng lớn nhất của xã hội VN là các làng, xã thì Pháp khó chi phối hơn. Pháp không thể mở trường đào tạo các lí trưởng, chánh tổng, các làng, xã bị đóng kín. Nhưng đó lại là bộ phận quan trọng bậc nhất trong cấu trúc xã hội VN, vì mỗi làng, xã là 1 tế bào, 1 cấu kiện ghép thành xã hội nông thôn-nông nghiệp VN, nên Pháp càng phải ra sức tìm một con đường, xâm nhập và chi phối các làng, xã.

Về căn bản, các chính sách cải lương hương chính chấp nhận các cơ chế cổ truyền của làng, xã VN, nhưng nó cố gắng nắm lấy bộ phận cầm đầu làng, xã, hương, thôn. Dù có những khó khăn và phản ứng từ các làng xã, nhưng kết quả của quá trình cải lương hương chính là thực dân Pháp đã thành công trong việc can thiệp vào các làng xã thông qua việc “viên chức hoá” các chức dịch, kì hào, kiểm soát về nhân sự, tài chính, đưa các thành phần gắn bó với chế độ thực dân vào chính quyền…

Sau khi đã xây dựng và củng cố được quyền lực của mình trong thực tế, thực dân Pháp tìm cách gạt bỏ vai trò của triều đình phong kiến trong công việc quốc gia. Với bản quy ước ngày 6/11/1925, Pháp đã công khai bãi bỏ thực quyền của giai cấp phong kiến và nắm lấy quyền thống trị cả trên 3 phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Một bộ máy nhà nước của thực dân Pháp vừa trùm lên, vừa chi phối hệ thống chính quyền phong kiến, hình thành.

2- Các cuộc cải cách về chính trị-hành chính

Trong những năm 20, thực dân Pháp đã tiến hành một số cải cách nhằm đối phó lại những biến động đang diễn ra trong xã hội VN. Mục tiêu của các cuộc cải cách này là mở rộng cơ sở xã hội của thực dân Pháp, nhưng không làm ảnh hưởng tới nền tảng thống trị ở thuộc địa. Xuất phát từ đó, Pháp kiên trì nhượng bộ đối với giai cấp có của, đồng thời tăng cường đàn áp chống lại quần chúng lao động.

Nhằm xoa dịu quần chúng, các Toàn quyền Pháp là Xa-rô, Lông, Va-ren đã tiến hành một số biện pháp như: lập các Viện Dân Biểu Bắc-Trung kì, mở rộng các công sở cho người Việt, lập các ngạch công chức tương đương cho người Pháp và người Việt có bằng cấp ngang nhau, nhưng với các chức vụ và chế độ lương bổng khác nhau. Bộ phận các uỷ viên người Việt trong các Phòng Thương mại và Canh nông của các thành phố lớn cũng được tăng thêm số lượng. Năm 1928, Pháp lập Đại hội đồng kinh tế-tài chính Đông Dương với tư cách là cơ quan tư vấn về kinh tế-tài chính trong Liên bang Đông Dương.

Một trong những biểu hiện khác của chính sách cải cách này là tăng cường số lượng công chức người Việt trong bộ máy hành chính thuộc địa. Để thực hiện mục tiêu đó, Toàn quyền Đông Dương ban hành sắc lệnh ngày 20/6/1921 về việc tăng cường lựa chọn vào bộ máy hành chính những quan lại người Việt, tạo điều kiện để tạo ra đội ngũ cán bộ địa phương người Việt, là lần đầu tiên trong lịch sử xâm lược và thống trị VN, thực dân Pháp chính thức ban hành một quy chế về việc tuyển dụng người Việt vào bộ máy hành chính thuộc địa. Tuy nhiên các cải cách của Toàn quyền Lông đã không đạt được mục đích  vì đã không làm thay đổi căn bản được tình hình, số lượng công chức người Việt vẫn không đáng kể.

Nhìn chung vấn đề xây dựng đội ngũ công chức người Việt trong những năm 20 là một vấn đề được chính quyền thực dân khá coi trọng. Một số nhà hoạt động trong lĩnh vực hành chính của Pháp coi đây như là chìa khoá để giải quyết tất cả các vấn đề khác của chính sách thuộc địa ở VN.

Để tiếp tục giải quyết vấn đề công chức người Việt, nghị định 27/2/1926 đã nêu rõ rằng từ nay tất cả các chức vụ trong cơ quan hành chính Pháp, trừ một số chức vụ cao, sẽ được xếp ngang nhau cho người VN và người Pháp. Tuy nhiên những quy định đó chỉ là trên giấy tờ, còn trong thực tế Toàn quyền Va-ren đã phê chuẩn một khoản gọi là “phụ cấp thuộc địa” cho các quan chức người Pháp, chiếm khoảng 0,7% lương tháng.

Vì vậy, việc cải cách trên không thoả mãn các công chức người Việt, khiến họ công khai nói rằng: “Các công chức VN do nguồn gốc của mình đã không có quyền nhận khoản phụ cấp thuộc địa và như vậy, chính sách nói trên chỉ có mục đích hạ thấp chủng tộc Á châu”.

Tóm lại, chính sách của thực dân Pháp trong những năm 20 là nhằm ve vãn, tranh thủ và lôi kéo một bộ phận rất nhỏ trong giới thương lưu VN, bao gồm một số nhà tư sản, địa chủ và trí thức lớn. Lực lượng này, vì quyền lợi cá nhân đã đứng về phía bọn xâm lược, câu kết với chính quyền thực dân Pháp áp bức bóc lột nhân dân ta. Còn đại đa số các tầng lớp nhân dân thì bị đẩy về bên kia trận tuyến, đối lập với toàn bộ chế độ thực dân.

3- Chính sách thuế khoá

Sau chiến tranh TG1, cùng với việc dẩy mạnh đầu tư khai thác, thực dân Pháp cũng tăng cường vơ vét , bóc lột nhân dân VN qua con đường thuế má. Các loại thuế trực thu và gián thu tăng lên. Số tiền thuế ngày càng nặng thêm.

Từ 1919-1921, chính quyền thực dân bãi bỏ mức thuế cũ ở Bắc-Trung kì, tiến hành đánh thuế đồng loạt với mức thuế than mới là 2,5 đồng; mức thuế than ở Nam kì tăng từ 5,58 đồng lên 7,5 đồng (năm 1929).

Tổng số tiền thu thuế ở 3 kì giai đoạn 1912- 1929 tăng gấp 3 lần giai đoạn trước. Trong hoàn cảnh bình thường, mức thuế đó đã nặng; trong những lúc đói kém, mất mùa, khủng hoảng kinh tế, mức thuế đó trở thành một gánh nặng khủng khiếp. Tính chung, không kể già trẻ lớn bé gái trai, mỗi người dân VN phải chịu 8 đồng tiền thuế, tương đương 70kg gạo hạng nhất tại thời điểm đó.

Bên cạnh các loại thuế, chính quyền thực dân còn bắt nhân dân VN mua các loại công trái, quốc trái để lấy tiền xây dựng các công trình công cộng hoặc phục vụ mục đích quân sự; không muốn mua cũng bị ép mua. Chỉ tính riêng số công trái phát hành trong những năm khủng hoảng kinh tế cũng vẫn đem về cho chính quyền thực dân khoảng 150 triệu đồng.

4- Chia rẽ dân tộc, chủng tộc

Chính sách xã hội của thực dân Pháp đối với các giai tầng xã hội khác nhau là khác nhau.

Với các tầng lớp trên như: những người hữu sản, giàu có, quyền lợi ít nhiều gắn liền với chính quyền thực dân, chúng dành cho những đặc quyền đặc lợi cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.

Với các tầng lớp dưới, thực dân Pháp chủ trương tăng cường bóc lột, đàn áp và đẩy họ vào vòng tăm tối của chế độ ngu dân.

Bên cạnh sự phân biệt giai cấp như trên, các chính sách của Pháp còn thể hiện sự phân biệt chủng tộc trắng trợn. Tất cả mọi người Pháp đều được ưu tiên trong mọi vị trí, mọi công việc, mọi thời gian; còn người Việt đều bị coi thường, khinh rẻ. Người Việt cho dù có tốt nghiệp các trường cao đẳng, thậm chí là học từ Pháp về, cũng không bao giờ được coi ngang bằng với người Pháp cũng học trường đó; bằng cấp ngang nhau nhưng chức vụ và mức lương của người Pháp luôn cao hơn người Việt cùng vị trí, cùng công sở.

5- Chính sách văn hoá, giáo dục và những chuyển biến mới.

Những năm sau chiến tranh TG1, cùng với sự biến đổi trong cơ cấu kinh tế và giai cấp xã hội, tình hình giáo dục, đời sống tư tưởng, văn hoá và tâm lí ở VN cũng có nhiều chuyển biến.

* Những chuyển biến trong giáo dục:

Cuối 1917, Toàn quyền Xa-rô ban hành nghị định về “Học chính Tổng quy” để cải cách hệ thống giáo dục(đây là cuộc cải cách giáo dục lần 2, lần 1 của Toàn quyền Bô vào 1906). Trong thời kỳ cải cách giáo dục lần 2(1917-1929) thực dân Pháp chủ trương nhanh chóng xoá bỏ hoàn toàn nền giáo dục Nho học(thực tế thì kì thi Hương cuối cùng là vào năm 1919), đồng thời tiếp tục mở rộng hệ thống giáo dục Pháp-Việt. Theo tinh thần của “Học chính Tổng quy”, nền giáo dục bao gồm 2 bộ phận: các trường Pháp chuyên dạy học sinh người Pháp theo chương trình “Chính quốc” Pháp và các trường Pháp-Việt chuyên dạy người Việt theo chương trình “Bản xứ”. Toàn bộ hệ thống giáo dục chia làm 3 cấp: Tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học. Thời gian theo học cụ thể là: tiểu học 5 năm, sau khi hoàn thành chương trình và thi đỗ tốt nghiệp được nhận bằng tiểu học và được thi vào trường trung học; bậc Trung học, học trong 4 năm(trung học Đệ nhất cấp).

Năm 1923, Toàn quyền Méc-lanh thay Xa-rô, có một số thay đổi và điều chỉnh trong chương trình cải cách giáo dục ở VN. Theo đó từ 1924 trở đi, với chương trình “bình diện” nhằm mục đích hạn chế bớt việc đi học của thiếu nhi, thanh niên VN, học sinh sau khi học xong 3 năm bậc sơ đẳng phải thi lấy bằng “Sơ học yếu lược”, rồi mới được lên lớp trên, học hết 2 năm nữa lại phải thi lấy bằng tốt nghiệp “Tiểu học Bổ túc Bản xứ”, nhưng ngay ở 3 năm đầu đó học sinh người Việt đã phải học bằng tiếng Pháp nên rất nhiều trẻ em nông thôn không thể theo học; việc quy định hạn tuổi các cấp cũng rất chặt chẽ càng làm giảm bớt số học sinh muốn đi học.

Để củng cố và hoàn chỉnh một bước giáo dục Trung học, năm 1927 Toàn quyền Đông Dương lại ra Nghị định đặt thêm bằng “Tú tài Bản xứ”, tức bằng “Trung học Đệ nhị cấp”, được coi tương đương với bằng “Tú tài Tây học” theo đúng chương trình bên Pháp; những người có bằng “Tú tài Bản xứ” có thể thi vào các trường cao đẳng, đại học ở Đông Dương và bên Pháp.

Bên cạnh các trường phổ thông(Tiểu-Trung học), chính quyền thuộc địa cũng cho xây dựng các trường chuyên nghiệp và dạy nghề, như các trường Bách Công, Bách Nghệ; ở một số thành phố lớn, các học sinh có bằng tốt nghiệp tiểu học được quyền thi vào các trường này.

Để thủ tiêu và thay thế các trường đào tạo quan lại phong kiến, thực dân Pháp đã giải tán 2 trường “Sĩ hoạn” ở Hà Nội và “Hậu bổ” ở Huế vào năm 1917, quyết định thành lập trường “Pháp-Chính” để đào tạo quan lại cai trị cho chính quyền thuộc địa ở VN và Đông Dương, đặt trực thuộc Đại học Đông Dương, do Giám đốc Đại học Đông Dương quản lí.

Một số trường cao đẳng khác cũng được thành lập, thuộc các ngành sư phạm, công chính, thương mại. Năm 1918 lập thêm trường Cao đẳng Nông nghiệp; còn trường Y học Đông Dương sau 16 năm hoạt động được đổi tên thành trường Kiêm bị cao đẳng Y dược.

Như vậy, so với những năm đầu thế kỷ XX, giai đoạn sau chiến tranh TG1 nền giáo dục VN có nhiều thay đổi về hệ thống tổ chức, cơ cấu ngành nghề và nội dung đào tạo.

Về số lượng trường học và những người đi học, đến niên khoá 1922-1923(5 năm sau thực hiện cải cách giáo dục lần 2), ở VN có 3.039 trường tiểu học, 7 trường cao đẳng tiểu học và 2 trường trung học; số học sinh gồm 163.110 người. Từ niên khoá 1923-1925 đến 1930, số học sinh tăng từ 187.000 người lên 434.335 người, trong đó có cả học sinh trường công và tư với các cấp học từ vỡ lòng đến trung học.

Riêng số sinh viên mới chỉ chiếm một số rất nhỏ trong số những người đi học. Năm học 1922-1923 có 436 sinh viên cao đẳng, trong đó: 106 người học ngành Y, 104 ngành Công chính và 41 người ngành Sư phạm. Niên khoá 1929-1930, tổng số sinh viên là 551 người.

Ngoài ra phải kể đến bộ phân học sinh các trường chuyên nghiệp và kĩ nghệ thực hành, trong đó đến năm học 1929-1930, riêng Bắc Kì có 900 học sinh chuyên nghiệp và học nghề.

Đáng chú ý là đa số học sinh các lớp cao(cao đẳng tiểu học, trung học) và sinh viên đại học đều là con em nhà khá giả, có địa vị trong xã hội; còn các gia đình nông dân thì may lắm cũng chỉ cho con em theo học các lớp chữ Hán hay Quốc ngữ ở trường làng; do đó số trẻ em thất học vẫn chiếm tỷ lệ rất lớn, 7-8 phần 10 số người ở độ tuổi đi học.

Số lượng giáo viên cũng tăng nhanh so với đầu thế kỷ. Theo thống kê của chính quyền Pháp, năm 1930 ở VN có 12.000 giáo viên các cấp.

Trong nghiên cứu khoa học, ngoài các cơ quan và viện nghiên cứu đã thành lập từ đầu thế kỷ, thực dân Pháp còn xây thêm một số cơ sở mới như: Túc Mễ cục, Viện Hải dương học, Hội đồng nghiên cứu khoa học(1928, thành viên là các kĩ sư, bác sĩ, các nhà quản lí các cơ quan khoa học và giáo dục). Mục đích của các cơ quan và tổ chức khoa học này là nhằm tìm hiểu và khai thác các nguồn tài nguyên, của cải của đất nước ta, phục vụ yêu cầu lợi nhuận của các nhà tư bản Pháp.

Sự nghiệp Y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng cũng có những tiến bộ đáng kể. Số bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh công và tư có tăng lên. Việc thành lập Viện Patxtơ với các chi nhánh của nó đã góp phần nghiên cứu, sản xuất một số vắc-xin chữa bệnh cho người Pháp và người Đông Dương. Số bác sĩ, y sĩ, y tá, dược sĩ và nhân viên y tế cũng tăng lên. Tuy nhiên đến 1929, trên toàn Đông Dương(20.900.000 dân, trong đó có 43.000 người Âu) chỉ có 761 thầy thuốc(trung bình 1 thầy thuốc/30.000 dân). Một số bệnh nan y như: dịch tả, sốt rét, đậu mùa, lao phổi có xu hướng tăng. Phần lớn các gia đình nông dân và thị dân nghèo không có tiền khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế, buộc phải tự chạy chữa theo lối cổ truyền.

* Đời sống văn hoá-nghệ thuật

Sau chiến tranh TG1, đời sống kinh tế-xã hội VN có nhiều biến đổi: một số ngành kinh tế mới như: ngân hang, công nghiệp chế biến, cơ khí… đã hình thành; các đô thị được mở mang; các lực lượng xã hội mới như công nhân, tư sản, tiểu tư sản cũng ra đời và ngày càng phát triển; hệ thống giáo dục Pháp-Việt mở rộng hơn trước; tầng lớp học sinh-sinh viên, công chức, trí thức ngày càng đông đảo; các cơ sở in ấn và xuất bản xuất hiện ở khắp 3 kì; hang chục tờ báo Pháp ngữ và Quốc ngữ ra đời.

Trong bối cảnh trên, các trào lưu tư tưởng mới, các thành tựu khoa học kĩ thuật, văn hoá, nghệ thuật từ phương Tây thông qua các sách báo nước ngoài đã ồ ạt tràn vào trong nước, thúc đẩy và tăng cường mối quan hệ tiếp xúc giữa 2 nền văn hoá Á-Âu, Đông-Tây ở VN. Việc in ấn, xuất bản và giới thiệu các công trình về khoa học tự nhiên, triết học, luật học của các học giả phương Tây đã góp phần làm thay đổi phương pháp tư duy, nghiên cứu trong một số trí thức tân học, hình thành phương pháp tư duy duy lí tồn tại bên cạnh lối tư duy duy cảm của người VN.

Giai đoạn 1919-1930 được xem như giai đoạn giao thời, chuyển tiếp của lịch sử dân tộc. Trong giai đoạn đó dường như có sự giao thoa, đan xen và tồn tại đồng thời giữa các yếu tố văn hoá truyền thống và văn hoá ngoại lai, giữa nền văn hoá nô dịch của các nhà tư bản thực dân và một nền văn hoá mới đang nảy sinh và dần dần phát triển trong long xã hội thuộc địa VN.

Thực dân Pháp ra sức sử dụng vũ khí văn hoá để phục vụ cho mục đích khai thác thuộc địa, tuyên truyền chính sách hợp tác Pháp-Việt. Chính quyền Pháp ưu tiên xuất bản các sách báo phổ biến tư tưởng Âu châu, cho Phạm Quỳnh ra “Nam Phong tạp chí” thay “Đông Dương tạp chí” của Nguyễn Văn Vĩnh; cho lập “Hội khai trí tiến đức” tập hợp những người thuộc các tầng lớp trên trong xã hội lúc đó. Trên tờ Nam Phong tạp chí và các báo chí thực dân, một số học giả VN thân Pháp ra sức viết bài tán dương chủ trương “Pháp-Việt đuề huề”, thừa nhận chế độ cai trị của Pháp, tuyên truyền và ca ngợi văn minh Pháp là nền văn mình cao nhất của phương Tây…

+ Tuy nhiên bên cạnh đó, một nền văn hoá mới của dân tộc VN cũng đang trên đường hình thành và phát triển mạnh mẽ:

Sau chiến tranh TG1, văn học mới đã chiếm được ưu thế trên văn đàn và đã được công chúng thành thị đón nhận với tấm lòng ưu ái. Nhiều truyện ngắn đã được đăng tải trên các báo chí ở Hà Nội, lúc đầu là của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, rồi Tản Đà, Nguyễn Công Hoan. Các truyện như: Sống chết mặc bay(Phạm Duy Tốn-1918), Câu chuyện một tối của người tân hôn(Nguyễn Bá Học-1921) đều có giá trị hiện thực phê phán nhất định.

Về tiểu thuyết, năm 1916 Tản Đà cho ra đời tác phẩm “Giấc mộng con”. Nhưng nổi bật hơn cả trong những năm 20 là tiểu thuyết “Tố Tâm”(năm 1925) của Hoàng Ngọc Phách, lần đầu tiên trong văn học VN, lối kết cấu “chương-hồi” được thay thế bằng lối kết cấu theo “quy luật tâm lí”; lần đầu tiên các tập tục tâm lí truyền thống của Nho giáo đã bị phê phán gay gắt, tự do cá nhân được ca ngợi, bảo vệ; có thể nói “Tố Tâm” chưa đạt tới một tiểu thuyết “lãng mạn chủ nghĩa” song nó đã mở ra con đường tiến tới “chủ nghĩa lãng mạn” của văn học VN.

Từ sau 1925 còn có thêm các tiểu thuyết: Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật, Sóng hồ Ba Bể của Phạm Bùi Cầm, Nho phong và Người quay tơ của Nguyễn Tường Tam. Báo Phụ nữ Tân văn dành nhiều kỳ để in tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Ngoài ra một số tiểu thuyết lịch sử viết về các anh hung dân tộc và các chiến công của cha ông thuở trước đã xuất hiện như: Tiếng sấm đêm đông, Lê Đại Hành, Việt-Thanh chiến kỷ, Vua Bố Cái.v.v. của Nguyễn Tử Siêu.

Về nghệ thuật tuồng có Hoàng Tăng Bí, chèo có Nguyễn Đình Nghi.

Về kịch nói, năm 1922 vở kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long đã được diễn thành công tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Từ đó các vở kịch nối tiếp nhau ra mắt độc giả: Toàn án lương tâm và Tây Sương tân kịch của Vũ Đình Long; Bạn và Vợ, Thủ phạm là tôi, Giời đất mới của Nguyễn Hữu Kim; Uyên ương, Hoàng Mộng Diệp của Vi Huyền Đắc; Ông Tây An Nam, Chàng ngốc của Nam Xương.v.v.

Về thơ, cuối những năm 20 xuất hiện tập thơ khóc vợ Linh Phượng ký của Đông Hồ và tập thơ khóc chồng Giọt lệ thu của Tương Phố.

Có thể nói, hầu hết các tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch nói và thơ trong thời gian này đều hướng vào mục đích phê phán tình trạng thối nát của xã hội đương thời, nêu lên những xung đột giữa các quan điểm phong kiến cũ và tư tưởng tư sản mới nảy sinh, đả kích những kẻ trưởng giả học đòi làm sang, phơi bày những cảnh lầm than, khốn khó của quần chúng lao động bị bọn thực dân, địa chủ, quan lại ức hiếp, bóc lột; đồng thời nói lên tình cảm yêu nước thương nòi và sự bất lực, chán chường của tầng lớp tiểu tư sản trí thức thành thị trước thời cuộc.

Trong các ngành nghệ thuật hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc… cũng có những biến đổi nhất định. Các mô típ và tư tưởng nghệ thuật phương Tây ngày càng có ảnh hưởng sâu đậm trong phương pháp tư duy và sang tác của các nghệ sĩ VN, thể hiện qua các bức tranh, bức tượng, nhà cửa do họ làm ra. Tuy nhiên, các mô típ mĩ thuật truyền thống, nhất là trong kiến trúc xây dựng đình chùa, nhà cửa ở nông thôn, vẫn đóng vai trò chủ yếu trong các xu hướng mĩ thuật bấy giờ. Đội ngũ nghệ sĩ mĩ thuật chủ yếu là những nghệ sĩ dân gian như thợ mộc, thợ nề, thợ thêu, thợ chạm, thợ tạc tượng, thợ gốm, thợ đúc chuông.. Các loại hình nghệ thuật mới chịu ảnh hưởng hay mô phỏng của phương Tây mặc dù đã phát triển và mở rộng hơn trước, nhưng chưa đủ sức lấn át các mô típ nghệ thuật truyền thống của dân tộc.

Tóm lại, từ sau chiến tranh TG1 đến 1930 là một khoảng thời gian không dài so với lịch sử phát triển của dân tộc VN. Nhưng trong khoảng thời gian đó đã diễn ra những biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội, giáo dục và văn hoá, tư tưởng và tâm lí… Cùng với sự chuyển mình của phong trào dân tộc, nhất là sự lớn mạnh của xu hướng cách mạng xã hội chủ nghĩa, một mô hình giáo dục hiện đại và một nền văn hoá mới đang trên đường hình thành và phát triển, tạo tiền đề thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cũng như cho các giai đoạn phát triển tiếp sau của dân tộc VN.

III- Tình hình phân hoá các giai cấp

Vào thời kì này, sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ nền kinh tế, nên những lực lượng gắn liền với nền sản xuất nông nghiệp vẫn là những bộ phận quan trọng trong cơ cấu xã hội.

1- Giai cấp địa chủ

Trong khi các thành phần kinh tế TBCN có những bước phát triển mạnh hơn thời kỳ trước thì các thế lực của giai cấp địa chủ vẫn không bị suy giảm chút nào, trái lại còn được củng cố, phát triển lớn mạnh hơn trước. Thế lực đó được củng cố vững chắc nhất thông qua sự tập trung ngày càng cao ruộng đất-tư liệu sản xuất cơ bản trong nông nghiệp-vào tay giai cấp địa chủ dưới sự che chở của thực dân Pháp.

– Ở Bắc Kì: do bình quân ruộng đất thấp, số chủ ruộng có từ 5 mẫu(1,8ha) trở lên đã được tính là địa chủ và số chủ ruộng có từ 50 mẫu trở lên được coi là đại địa chủ.

Năm 1930, số địa chủ vừa và nhỏ(5-50mẫu)chiếm 8,4% số chủ ruộng và khoảng 20% diện tích canh tác; có 1060 đại địa chủ chiếm 0,1% số chủ ruộng chiếm 20% diện tích canh tác; số chủ ruộng có diện tích dưới 1 mẫu (0,36ha) chiếm 61% số chủ ruộng.

– Ở Trung Kì: gồm 39.500 chủ đất có 5-50 mẫu ruộng, chiếm 6% tổng số chủ ruộng và 15% diện tích canh tác; có 350 đại địa chủ sở hữu trên 50 mẫu bằng 1,4% tổng số chủ ruộng, chiếm 10% diện tích canh tác.

– Ở Nam Kì: diện tích đất canh tác tăng nhanh và mức độ tập trung ruộng đất rất cao so với Bắc và Trung Kì. Vào năm 1930, số chủ ruộng có 5-100 ha là 69.000 người chiếm 25,7% số chủ ruộng và 45% diện tích canh tác(khoảng 1.035.000 ha); có 2.449 đại địa chủ sở hữu 100-500 ha và 244 đại địa chủ có trên 500 ha.

Nói chung, lực lượng địa chủ thời kỳ này chiếm khoảng 7% cư dân nông thôn, nhưng nắm giữ 50% diện tích canh tác. Cho đến sát chiến tranh TG2, toàn VN có khoảng 6.500 địa chủ có sở hữu trên 50ha ruộng đất, trong đó Nam Kì có 6.200, Bắc Kì có 200 và Trung Kì có 100 người. Đó là những cơ sở tạo nên thế lực kinh tế, đồng thời là công cụ bóc lột của giai cấp này đối với nông dân.

Đa số địa chủ đem RĐ phát canh thu tô. Tô có thể là hiện vật hoặc bằng tiền, song chủ yếu là tô hiện vật, gồm các sản phẩm thu được từ đất canh tác. Ở Nam Kì có 345.000 gia đình nông dân chuyên sống bằng lĩnh canh RĐ của địa chủ, chiếm 57% tổng số hộ nông dân; 63% RĐ được đem phát canh và số chủ ruộng có phát canh lên đến 90.285 người. Ở Bắc Kì, số người lĩnh canh RĐ và tá điền là 275.000 người, chiếm 24% cư dân nông thôn. Ở Trung Kì, số tá điền và người lĩnh canh khoảng 100.000 người, chiếm 13% cư dân nông nghiệp.

Ở các vùng miền núi, hình thức bóc lột chủ yếu của địa chủ với nông dân là địa tô lao dịch.

Do các quy chế của chính quyền thực dân đề ra qua các cuộc “cải lương hương chính”, như lựa chọn các thành phần có “tài sản và danh giá”, trung thành với chế độ thực dân.v.v. đưa vào bộ máy chính quyền cơ sở nên địa vị của giai cấp địa chủ trong nông thôn được nâng cao và củng cố vững chắc. Giai cấp địa chủ chiếm đa số trong cơ cấu chính quyền các hương thôn(Hội đồng tộc biểu, Hội đồng kì mục, Xã trưởng, Tổng lí…). Ngoài ra thực dân Pháp còn tạo điều kiện và những cơ sở pháp lí cho giai cấp địa chủ tham gia vào các tổ chức chính quyền bên trên(Hội đồng dân biểu, Hội đồng quản hạt…). Do đó , sự câu kết giữa giai cấp địa chủ với thực dân Pháp càng được củng cố vững chắc hơn.

2- Giai cấp nông dân

Là thành phần chiếm đại đa số trong xã hội VN với khoảng 90% dân số. Trong quá trình sản xuất, giai cấp nông dân cũng dần bị phân hoá thành 3 tầng lớp: trung nông, bần nông, cố nông.

Trung nông: có tương đối đủ RĐ và công cụ sản xuất(trâu, bò, nông cụ…) để tự sản xuất và nuôi sống mình, không phải bán sức lao động, nhưng cũng không có khả năng tham gia vào việc bóc lột người khác. Tuy nhiên đó chỉ là những đặc điểm có tính chất tương đối. Một số trung nông lớp dưới vẫn phải bán sức lao động(tuỳ thời điểm) và một số có tham gia bóc lột qua việc cho lĩnh canh RĐ dư hoặc phát canh lại RĐ lĩnh canh của địa chủ như ở Nam Kì.

Bần nông: là những người thiếu RĐ canh tác, thiếu trâu bò và nông cụ sản xuất, phải lĩnh canh(thêm) RĐ của địa chủ, thuê mướn trâu bò, nông cụ và tiền vốn.

Cố nông: là tầng lớp nghèo khổ nhất, bần cùng nhất trong giai cấp nông dân. Họ thường không có RĐ, không có trâu bò hay nông cụ. Nguồn sống chính là đi lĩnh canh RĐ, làm thuê, đi ở cho nhà giàu. Theo điều tra năm 1945, ở 16 tỉnh miền Bắc có 11.785 hộ cố nông chiếm 20,6% tổng số nông hộ, nhưng chỉ có 1.513 mẫu 7 sào ruộng chiếm 1,2% tổng số RĐ.

Tóm lại, thời kỳ này giai cấp nông dân chiếm 90% dân số nhưng chỉ có 42% diện tích canh tác. Nông dân bị bóc lột nặng nề, nhưng lại không có lối thoát. Một số lớn bị bần cùng hoá, phải bỏ ra các thành thị, hầm mỏ để kiếm việc, song phần nhiều phải quay về vì không kiếm nổi việc; những năm khó khăn, khủng hoảng kinh tế, tình trạng này càng phổ biến. Đó là con đường bần cùng không lối thoát của nông dân VN thời Pháp thuộc.

Bên cạnh các giai cấp đại diện cho xã hội VN truyền thống, các giai tầng mới cũng xuất hiện và ngày càng phát triển, phân hoá rõ rệt.

3- Giai cấp tư sản

Trước Thế chiến I, tư sản VN chỉ là một tầng lớp nhỏ bé, chủ yếu kinh doanh thương nghiệp, hoạt động sản xuất còn rất hạn chế. Từ sau chiến tranh, hoạt động kinh doanh của tư sản VN được mở rộng và có quy mô lớn hơn. Họ kinh doanh trong hầu hết các ngành kinh tế: xay xát, in ấn, dệt, nhuộm, vận tải, sửa chữa cơ khí, sản xuất sơn, xà phòng, đường, nước mắm, đồ gốm.v.v. Một số đã có trong tay những sản nghiệp lớn như: hầm mỏ, đồn điền, các công ti thương mại… Một số đã có những cơ sở sản xuất thu hút vài trăm công nhân, mở rộng và phát triển nhanh chóng về thế lực kinh tế…

Tóm lại, tư sản VN đã thực sự hình thành một giai cấp xã hội vào những năm sau Thế chiến I. Tuy nhiên, do tác động của các điều kiện kinh tế-xã hội mới, nên sau chiến tranh, giai cấp tư sản tiếp tục phân hoá thành 2 bộ phận là Tư sản mại bản và Tư sản dân tộc.

– Bộ phận tư sản mại bản ngày càng đông đảo thêm cùng với tốc độ đầu tư của tư bản Pháp. Từ sau chiến tranh TGI, hang hoá Pháp nhập vào Đông Dương tăng nhanh, từ 1.641 triệu Phơ-răng mỗi năm(giai đoạn 1919-1923) lên tới 2.253 triệu Phơ-răng mỗi năm trong giai đoạn 1924-1928, do đó số người làm đại lí hang hoá cũng tăng lên. Bắt đầu xuất hiện những công ti có quy mô lớn, như: Tri Phú, Quế Dương(Hải Phòng), Đan Phong(Hà Nội), Thuận Hoà(Chợ Lớn)…

Số tư sản mại bản chuyên thầu khoán những công việc công chính, xây dựng cũng tăng lên. Chỉ riêng Bắc Kì những năm 1923-1927 đã có 449 nhà thầu khoán VN lĩnh trưng công việc công chính với số tiền trên 4 triệu Phơ-răng. Ngoài ra, còn có một số người chung vốn với tư bản Pháp kinh doanh công, nông nghiệp như Vũ Duy Hinh, Vũ Văn An…

Một số nhà tư sản VN đã có quan hệ buôn bán ở các nước Miên, Lào, Trung Quốc, Hồng Kông, Xingapo, Inđônêxia, Pháp. Hàng năm các công ti thương mại của VN đã nhập khẩu vào thị trường trong nước từ 3.000 đến 7.000 tấn hang hoá.

– Bộ phận tư sản dân tộc sau chiến tranh TGI cũng có bước phát triển vượt bậc về số lượng và thế lực kinh tế. Nhiều cơ sở kinh tế đã có từ trước và trong chiến tranh TG thứ nhất, nay được mở rông quy mô sản xuất và tăng cường thêm thiết bị kĩ thuật, như xưởng sơn của Nguyễn Sơn Hà, xưởng sửa chữa tàu của Bạch Thái Bưởi, xưởng dệt của Lê Phát Vĩnh… Nhiều đồn điền rộng hàng ngàn mẫu ở Nam Kì xuất hiện, thu hút hang trăm công nhân.

Bên cạnh đó, một số cơ sở mới được thành lập như: nhà máy gạch Hưng Kí ở Bắc Ninh, xí nghiệp dệt Vĩnh An ở Huế…

Nhìn chung, sau chiến tranh TGI, giai cấp tư sản VN đã lớn mạnh và trưởng thành rõ rệt. Đại diện cho thế lực kinh tế của tư sản VN là những người như: Trương Văn Bền, Nguyễn Sơn Hà, Bạch Thái Bưởi, Lê Phát Vĩnh… Công ti tàu biển của Bạch Thái Bưởi đã có lúc sử dụng tới 30 chiếc tàu với 1.500 công nhân.

Tuy nhiên, địa vị kinh tế của tư sản VN còn rất nhỏ yếu và thấp kém so với tư bản nước ngoài, cũng như so với toàn bộ nền kinh tế. Tổng số  vốn kinh doanh của họ chỉ bằng khoảng 5% số vốn của tư bản nước ngoài. Tư sản VN chủ yếu kinh doanh thương nghiệp, trong các ngành công nghiệp thì lực lượng còn rất nhỏ(toàn bộ vốn đầu tư vào các ngành hầm mỏ, cơ khí, giao thông vận tải chỉ bằng 1% số vốn đầu tư của tư bản Pháp). Toàn bộ lực lượng nòng cốt của giai cấp tư sản VN vào cuối những năm 20 chỉ vào khoảng 2.000 người, chiếm 0,1% dân số cả nước.

Bên cạnh giai cấp tư sản ở thành thị, tầng lớp phú nông ở nông thôn cũng phát triển, song cũng rất chậm chạp. Vào những năm 30, lực lượng phú nông chiếm khoảng 2% số hộ nông dân và nắm khoảng 7% diện tích RĐ. Nhìn chung, tầng lớp phú nông ở VN không có khả năng tập hợp tư liệu sản xuất, nhất là RĐ, để phát triển thế lực kinh tế, họ không có sở hữu lớn về RĐ và các tư liệu sản xuất khác. Một bộ phận trong số họ-nhất là ở Nam bộ-phải lĩnh canh RĐ của địa chủ, và khi đã tập trung được khá nhiều RĐ thì một số lại trở lại phát canh thu tô, thay cho việc phát triển hình thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp.

Một trong những nguyên nhân khiến cho giai cấp tư sản VN phát triển “chậm một cách khác thường” là vì họ luôn bị chèn ép và cản trở từ nhiều phía. Tư bản Pháp, với uy thế của kẻ thống trị, đã ra sức chèn ép tư sản VN trong kinh doanh, nhất là trong sản xuất công nghiệp. Trong thương nghiệp, tư sản VN không những gặp phải tư sản Pháp, mà còn gặp phải một lực lượng cạnh tranh nguy hiểm khác là tư sản người Hoa. Các hoạt động thương mại, từ buôn bán thóc gạo, xay xát, vận chuyển và xuất nhập khẩu đều bị tư sản Hoa kiều lũng đoạn triệt để. Trong nông nghiệp, quan hệ tư bản chủ nghĩa lại bị giai cấp địa chủ với lối tổ chức sản xuất phong kiến cũ kìm hãm nặng nề.

Quá trình phát triển của tư sản VN từ sau chiến tranh TGI là quá trình lớn mạnh và chuyển biến từ một tầng lớp xã hội sang một giai cấp xã hội, và bắt đầu bước lên vũ đài chính trị, góp phần mình vào các phong trào dân tộc. Tuy vậy, vì cơ sở kinh tế của giai cấp tư sản VN hết sức nhỏ yếu nên thái độ chính trị của họ rất bạc nhược. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sau Thế chiến I, vai trò chủ yếu thuộc về tầng lớp tiểu tư sản chứ không phải tư sản; và sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái(1930) bị thất bại thì vai trò chính trị của giai cấp tư sản hầu như chấm dứt.

4- Giai cấp công nhân

Giai cấp công nhân VN ngày càng đông đảo thêm theo đà phát triển đầu tư vào các ngành kinh tế. Năm 1929, riêng số công nhân làm trong các doanh nghiệp của người Pháp ở Đông Dương(chủ yếu ở VN) là 221.050 người. Ngoài ra, số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp của tư sản VN và nước ngoài khác cũng chiếm khoảng vài vạn người. Chưa kể, luôn luôn tồn tại một số lượng đáng kể công nhân thời vụ theo các hợp đồng của tư sản.

Đông đảo nhất trong giai cấp công nhân VN là công nhân nhóm ngành công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải và thương nghiệp gồm 86.622 người, chiếm 39,2% tổng số công nhân, tập trung ở các thành thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn. Bộ phận đông đảo thứ hai là số công nhân các đồn điền tập trung chủ yếu ở Nam Trung kì và Tây Nam kì với 81.188 người, chiếm 36,8% tổng số công nhân. Tiếp đến là đội ngũ công nhân mỏ với 53.240 người, chiếm 24,6% tổng số công nhân, tập trung chủ yếu ở vùng Quảng Yên, Đông Triều.

Một số công nhân qua con đường tuyển mộ cưỡng bức, nhất là số công nhân đồn điền. Một số chỉ vô sản hoá nửa vời(bán vô sản), nhất là số công nhân theo mùa, phu công nhân. Trình độ văn hoá của công nhân VN rất thấp, số người mù chữ đông. Tính chất vô sản hiện đại của họ cũng bị hạn chế bởi việc sử dụng quá rộng rãi lao động thủ công trong các ngành sản xuất, kinh doanh(hiện tượng phổ biến trong quá trình sản xuất là giới chủ sử dụng lao động chân tay một cách triệt để; trong hầm mỏ, các hoạt động đào, xúc, chuyển than… đều chủ yếu sử dụng sức lao động chân tay của con người). Tính chung trong tất cả các ngành cho đến năm 1929, số công nhân kỹ thuật chỉ chiếm có 0,43% tổng số công nhân. Điều kiện sống và lao động của công nhân nói chung rất khổ cực, họ thường làm việc từ 10 tiếng, cá biệt từ 12-16 tiếng một ngày, với đồng lương rẻ mạt, thêm vào đó thường xuyên bị đốc công, cai… áp bức, đánh đập tàn nhẫn. Do đó, giai cấp công nhân VN sớm có tinh thần đấu tranh. Mặc dù số lượng công nhân chiếm tỷ lệ chưa lớn trong tổng số dân VN(năm 1929 chiếm 1,1%) nhưng họ sống khá tập trung tại các thành thị lớn, các trung tâm công nghiệp(năm 1929, Hòn Gai-Đông Triều có tới 35.900 công nhân mỏ; Hà Nội có hơn 2 vạn công nhân trên tổng số 13 vạn dân; Vinh-Bến Thuỷ có 7.000 công nhân, chiếm 38% dân số). Tinh thần kỷ luật, ý thức đoàn kết của công nhân cũng được rèn giũa qua quá trình lao động và đấu tranh.

Do những đặc điểm trên, giai cấp công nhân VN đã sớm được giác ngộ ý thức giai cấp và nhanh chóng vươn lên nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Các phong trào đấu tranh do giai cấp công nhân tổ chức, tham gia ngày càng nhiều. Ý thức giác ngộ cách mạng của giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao theo đà của các cuộc đấu tranh và của việc tăng cường tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào VN. Từ 1930, với việc thành lập ĐCS VN, giai cấp công nhân VN đã chính thức giành được ngọn cờ lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

5- Giai cấp tiểu tư sản

Các tầng lớp tiểu tư sản thành thị thời kì này cũng ngày càng đông đảo cùng với quá trình mở mang các đô thị, tăng cường đầu tư phát triển kinh tế-văn hoá-giáo dục. Họ bao gồm thợ thủ công, thị dân, học sinh-trí thức với địa bàn cư trú chủ yếu ở các thành thị. Họ được bổ sung lien tục trong quá trình 30 năm phát triển kinh tế-xã hội và đã hợp thành một tầng lớp rất đông đảo trong xã hội.

Giới trí thức và học sinh các trường là bộ phận quan trọng của đội ngũ tiểu tư sản. Năm 1929, ước tính có 12.000 giáo viên các trường tiểu-trung học. Số học sinh phổ thông các cấp là 335.545 người(trong đó, 328.000 học sinh tiểu học, 7.545 học sinh trung học). Bên cạnh đó là hang trăm sinh viên các trường cao đẳng và đại học.

Số viên chức làm việc trong các công sở gồm khoảng 23.000 người.

Số người buôn bán nhỏ có đóng thuế môn bài thường xuyên khoảng 130.000 người.

Còn về hoạt động công nghiệp, theo ước tính vào giữa những năm 30, VN có khoảng 21,6 vạn thợ thủ công(trong đó Bắc kì là nơi tập trung đông nhất với khoảng 12 vạn, Trung kì 3,6 vạn, Nam kì 6 vạn); đó là chưa kể số thợ thủ công không chuyên trong các làng mạc chưa thể thống kê được. Cũng theo ước tính, số thợ thủ công chiếm khoảng 6-7% dân số(Bắc kì có khoảng 4 vạn gia đình chuyên làm nghề thủ công). Đa số thợ thủ công làm việc ở nông thôn, họ tự mua nguyên liệu, tự tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy những thợ thủ công này không có khả năng tự chuyển các cơ sở sản xuất thành các công trường thủ công, mà chỉ giữ nguyên cơ sở sản xuất với quy mô nhỏ vốn có.

Nói chung, thu nhập và đời sống vật chất của trí thức và giới công chức khá cao so với nông dân và công nhân. Trong các công sở, lương của viên chức nhỏ khoảng 49 đồng/năm, viên chức trung bình là 166 đồng/năm(trong khi giá gạo vào thời điểm cao nhất trong năm 1930 là 13,1 đồng/tạ). Tuy nhiên, so với thu nhập của các viên chức người Pháp, thì thu nhập của viên chức người Việt vẫn thấp hơn rất nhiều lần(viên chức Pháp thu nhập trung bình 5000 đồng/năm, gấp 30 lần viên chức trung bình và trên 100 lần thu nhập của viên chức nhỏ người Việt; lương 1 người gác cổng Pháp cao gấp 3,5 lần lương 1 kỹ sư VN). Sự bất bình đẳng này gây nên tâm lí bất mãn ngày càng sâu sắc trong giới công chức người bản xứ.

Do tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, dân số thành thị tăng lên nhanh chóng. Từ 1913 – 1921, Hà Nội tăng thêm 10.000 người, Sài Gòn tăng 33.000, Hải Phòng tăng 40.000 người. Đến 1928, thành phố Nam Định có 38.000 dân, Hải Phòng 98.000 dân, Hà Nội 130.000 dân, Huế 41.000, Sài Gòn 125.000 và Chợ Lớn 192.000 dân.

Đầu những năm 20, dân số thành thị mới chiếm 3,6% tổng dân số, thì đến những năm 30 đã lên đến 8-10%, cá biệt như ở Sài Gòn-Chợ Lớn dân thành thị chiếm 14%.

Nhìn chung thời kì sau chiến tranh thế giới I, các tầng lớp, giai cấp mới đại diện cho phương thức sản xuất mới, đã có những bước tiến đáng kể, nhưng vẫn quá chậm chạp so với yêu cầu của sự tiến bộ xã hội. Các lực lượng xã hội mới vẫn chỉ là thiểu số, nắm trong tay một tiềm lực kinh tế hết sức hạn hẹp. Cơ cấu xã hội cổ truyền tuy đã bị biến dạng và xáo trộn khá mạnh, nhưng vẫn chưa bị phá vỡ và thay đổi căn bản. Tính chất thuộc địa tư bản chủ nghĩa trở thành thuộc tính nổi bật của xã hội VN vào thời kì này.

Dưới tác động của phương thức sản xuất TBCN do tư bản Pháp du nhập vào, nền kinh tế VN dần chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp sang nền kinh tế thuộc địa-tư bản chủ nghĩa. Có thể hình dung kết cấu kinh tế VN thời kì này có hai khu vực. Một khu vực hiện đại bao gồm công nghiệp hiện đại, thương nghiệp, các cơ sở tài chính và giao thông, các đồn điền công nghiệp; Và một khu vực truyền thống tập hợp các phương thức hoạt động truyền thống như nông nghiệp và thủ công nghiệp. Việc sử dụng phương thức kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa đã tạo ra bước phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế hang hoá đã bắt đầu hình thành và phát triển ở một số khu vực sản xuất. Các sản phẩm làm ra không phải chỉ đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn dùng để xuất khẩu ra thị trường thế giới. Nhờ có các hoạt động kinh tế với nước ngoài mà lần đầu tiên nền kinh tế VN đã vượt khỏi biên giới quốc gia để tiếp cận và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới.

Rõ ràng so với giai đoạn trước, nền kinh tế VN từ đầu thế kỷ XX đến những năm 30 đã có bước phát triển nhanh chóng và những chuyển biến căn bản. Quan hệ TBCN đã được mở rộng và giữ vị trí quan trọng trong nhiều ngành kinh tế.

Trên cơ sở biến đổi về kinh tế, các thành phần giai cấp xã hội tương ứng cũng dần biến đổi theo. Những lực lượng đại diện cho xã hội cũ  như địa chủ, nông dân ngày càng bị phân hoá sâu sắc: địa chủ thì giàu lên nhanh chóng, còn đa số nông dân thì rơi vào cảnh nghèo đói, bần cùng. Đồng thời các lực lượng xã hội mới như tư sản, công nhân, tiểu tư sản cũng bắt đầu xuất hiện và từng bước trưởng thành nhanh chóng cùng với sự mở rộng của các thành phần kinh tế mới-TBCN. Dân số tăng nhanh, các thị trấn và thị xã được mở rộng nhiều so với trước; bộ mặt thành thị và cả một số vùng nông thôn ven thị cũng thay đổi. Một số cơ cấu xã hội mới đang trên đường định hình và phát triển theo hướng TBCN.

Tuy nhiên, quá trình tư bản hoá của Pháp ở VN còn để lại nhiều hạn chế và những hậu quả nặng nề, mà hạn chế lớn nhất là đã tạo ra một cơ cấu kinh tế què quặt, mất cân đối và sự chuyển biến quá chậm của nền kinh tế, và do đó dẫn tới sự phân hoá thiếu triệt để của cơ cấu giai cấp xã hội.

Mặc dù vậy, sự ra đời và phát triển của các lực lượng xã hội mới đã tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết cho sự tiếp thu các quan điểm và tư tưởng mới, làm cơ sở động lực thúc đẩy sự phát triển của phong trào dân tộc, đưa xã hội VN chuyển biến nhanh vào quỹ đạo vận hành của toàn nhân loại.

(Xem tiếp Chương VIII)