Lịch sử Việt Nam 1954 – 1975

Chương 1.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc

và đấu tranh chống Mĩ – Ngụy ở miền Nam (1954 – 1965)

(24 tiết)

—————————

I. Tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ 1954 và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới (2 tiết)

1. Tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ 1954:

Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) về Đông Dương được kí kết đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đối với 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Đây là một thắng lợi* to lớn của nhân dân 3 nước Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng sau 9 năm kháng chiến gian khổ. Ngoài việc thủ tiêu ách thống trị của thực dân Pháp gần 1 thế kỷ trên đất nước ta, thắng lợi này còn là một đòn mạnh đánh vào âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh* Đông Dương của đế quốc Mĩ.

Theo Hiệp định Giơnevơ, việc ngừng bắn, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực được thi hành trong vòng 300 ngày, kể từ ngày 21/7/1954. Tuy nhiên, ngay từ những ngày đầu, đế quốc Mĩ, bọn phản động Pháp và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đã tìm mọi cách gây khó khăn và phá hoại việc thi hành các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ, như cố tình khiêu khích, trì hoãn việc ngừng bắn trên các chiến trường; tiến hành dụ dỗ và cưỡng bức gần 1 triệu đồng bào miền Bắc, chủ yếu là đồng bào Thiên Chúa giáo, di cư vào Nam; tháo dỡ, mang đi hoặc phá hoại máy móc, dụng cụ, tài sản công cộng nhằm làm tê liệt và gây khó khăn cho ta trong việc tiếp quản vùng giải phóng ở miền Bắc; cài lại hàng ngàn gián điệp, hàng trăm nhóm phản động cùng với các toán biệt kích được tung ra miền Bắc phá hoại các cơ sở kinh tế, các công trình công cộng. Các phần tử tay sai, các đảng phái phản động lén lút kích động quần chúng, gây bạo loạn ở một số địa phương, tung truyền đơn, tài liệu xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhằm lung lạc quần chúng, gây hoang mang, dao động trong nhân dân.

Về phía Việt Nam, với chủ trương nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Giơnevơ, ngày 22/7/1954, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh cho các lực lượng vũ trang ngừng bắn trên chiến trường toàn quốc (Bắc Bộ ngày 27/7; Trung Bộ ngày 1/8; Nam Bộ ngày 11/8/1954); mặt khác, Chính phủ và nhân dân ta kiên quyết đấu tranh đòi đối phương cũng phải nghiêm túc thi hành Hiệp định. Kết quả, các điều khoản về việc ngừng bắn, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực đã được thực hiện đúng quy định. Ngày 10/10/1954, quân ta tiếp quản Thủ đô Hà Nội trong sự đón chào nồng nhiệt của nhân dân thành phố. Ngày 1/1/1955, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, một cuộc mít tinh trọng thể được tổ chức để chào mừng, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về Thủ đô với sự tham gia của hàng chục vạn nhân dân thành phố. Sự kiện lịch sử này đã gây ấn tượng sâu sắc và có ý nghĩa chính trị to lớn đối với đồng bào cả nước.

Ngày 13/5/1955, tên lính viễn chinh cuối cùng của quân đội thực dân Pháp đã rút khỏi Hải Phòng và đến ngày 16/5/1955 thì rút khỏi đảo Cát Bà. Miền Bắc Việt Nam đã sạch bóng quân xâm lược.

Ở miền Nam Việt Nam, theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, thực dân Pháp tạm thời nắm quyền kiểm soát trong 2 năm. Suốt thời gian này, thực dân Pháp luôn gây cản trở và phá hoại các điều khoản của Hiệp định. Tuy nhiên, một mặt do sự đấu tranh kiên quyết của nhân dân ta, mặt khác do âm mưu của Mĩ muốn gạt Pháp để độc chiếm miền Nam, nên quân đội Pháp đã từng bước rút khỏi miền Nam Việt Nam. Ngày 14/4/1956, Chính phủ Pháp gửi Thông điệp cho 2 Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương thông báo về việc quân viễn chinh Pháp ở miền Nam Việt Nam đã rút hết về nước.

Quân đội Pháp rút khỏi miền Nam Việt Nam trong khi còn những điều khoản của Hiệp định liên quan đến trách nhiệm của họ chưa được thi hành, trong đó có điều khoản về việc tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử hai miền Nam – Bắc. Tập đoàn Mĩ – Diệm, kẻ kế tục thực dân Pháp ở miền Nam, sẵn có âm mưu từ trước đã trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ.

Miền Nam từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng, giờ đây phần lớn cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc, toàn bộ hoạt động của cách mạng phải chuyển sang phương thức vừa hợp pháp, vừa không hợp pháp, vừa công khai, vừa bí mật. Đó là một sự đảo lộn lớn, một tình thế nguy hiểm đối với cách mạng ở miền Nam. Sự thay đổi đó tác động mạnh đến tâm tư, tình cảm đồng bào, đồng chí hai miền Nam – Bắc và đặt ra cho cách mạng Việt Nam những nhiệm vụ mới vô cùng khó khăn.

2. Nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới:

Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam xuất phát từ tình hình cụ thể của đất nước sau Hiệp định Giơnevơ 1954 như đã đề cập trên; đồng thời cũng xuất phát từ chính sách của Mĩ đi từ can thiệp đến xâm lược Việt Nam nói chung, miền Nam nói riêng.

Khu vực châu Á – Thái Bình Dương được Mĩ đặc biệt quan tâm. Vì đây là một hướng chiến lược quan trọng nhằm bao vây các nước xã hội chủ nghĩa (trước hết là Liên Xô và Trung Quốc) từ hướng Đông và chống lại các trào lưu cách mạng ở khu vực Đông Nam Á. Đây là vùng được thiên nhiên ưu đãi, có dư thừa các tiền đề vật chất (tài nguyên và nhân lực), chứa đựng một tiềm năng phát triển to lớn chưa thể lường trước được. Đây còn là nơi có các tuyến đường hàng hải (Bắc – Nam và Tây – Đông) vận chuyển phần lớn hàng hoá của “thế giới tự do” mà Mĩ cần phải bảo vệ.

Vì vậy, ngay khi cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của Pháp (1945 – 1954) đang diễn ra, Mĩ đã bằng mọi cách giúp Pháp tránh được thất bại. Theo nhãn quan của các nhà chiến lược Mĩ, cuộc kháng chiến của Việt Nam đang uy hiếp trực tiếp quyền lợi của chủ nghĩa đế quốc ở vùng Đông Nam Á. Tổng thống Mĩ Aixenhao (Eisenhower) đã lập luận rằng, nếu để Việt Nam và Đông Dương rơi vào tay cộng sản thì không chỉ Đông Nam Á mà “chuỗi đảo phòng thủ gồm Nhật Bản, Đài Loan, Philipin và hướng về phía Nam, nó chuyển sang…cả Úc và Tân Tây Lan” đều bị đe doạ. Mặt khác, Mĩ còn coi Việt Nam và Đông Dương có một vị trí quan trọng ở châu Á. Theo giới cầm quyền Mĩ, nếu coi Đông Nam Á là cái ổ khoá để mở cửa đi vào lục địa châu Á từ phía Nam, thì Việt Nam và Đông Dương là cái chìa khoá mở cửa vào gần nhất. Việt Nam là cầu nối hệ thống xã hội chủ nghĩa với vùng Đông Nam Á đang sục sôi cách mạng; sau khi đánh thắng thực dân Pháp, Việt Nam là ngọn cờ cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên khắp các lục địa Á, Phi, Mĩ La Tinh.

Từ cách nhìn trên đây, chính quyền Aixenhao đã không ngừng tăng viện trợ cho thực dân Pháp, từ 150 triệu đô la năm 1950 lên tới 1 tỷ đô la vào năm 1954, chiếm gần tới 80% toàn bộ chiến phí của Pháp ở Đông Dương. Tuy nhiên, sự chi viện to lớn của Mĩ vẫn không tài nào ngăn chặn được sự thất bại hoàn toàn của Pháp. Ngày 7/5/1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ của quân và dân ta toàn thắng, Mĩ tăng cường chuẩn bị thế lực thay thực dân Pháp ở Việt Nam. Bằng sức ép của Mĩ đối với Pháp và bằng nhiều cuộc vận động khác, ngày 16/6/1954, bù nhìn Bảo Đại cùng một lúc kí 2 Sắc lệnh: một chấp nhận đơn “từ chức” Thủ tướng của Bửu Lộc; một chỉ định Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng “Quốc gia Việt Nam”. Ngày 7/7/1954, Ngô Đình Diệm chính thức lập Chính phủ bù nhìn tại Sài Gòn, mở đầu chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm tại miền Nam. Tiếp theo, Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) được kí kết, khách quan tạo cơ hội để Mĩ nhanh chóng gạt Pháp, trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam thông qua chủ nghĩa thực dân mới. Đế quốc Mĩ đã chuyển từ vai trò một kẻ can thiệp sang kẻ xâm lược; và Việt Nam từ đây giữ một vai trò quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mĩ. Ngày 23/7/1954, hai ngày sau khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, Ngoại trưởng Mĩ Đa-lét (Dulles) tuyên bố: “Từ nay về sau, vấn đề bức thiết không phải là than tiếc dĩ vãng, mà là lợi dụng thời cơ để việc thất thủ miền Bắc Việt Nam không mở đường cho chủ nghĩa cộng sản bành trướng ở Đông Nam Á và Tây Nam Thái Bình Dương”.

Ngày 3/8/1954, Hội đồng An ninh Quốc gia Mĩ cho rằng: “Hiệp định Giơnevơ 1954 là một thảm hoạ, đã hoàn thành bước quan trọng của chủ nghĩa cộng sản, có thể dẫn tới mất cả Đông Nam Á”.

Tháng 9/1954, Mĩ lôi kéo một số nước (Anh, Pháp, Niu Di Lân, Ôtxtrâylia, Philipin, Thái Lan và Pakitxtan) lập ra khối “Liên minh quân sự Đông Nam Á” (SEATO) và ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này.

Như thế, miền Nam Việt Nam từ sau khi kí kết Hiệp định Giơnevơ, tồn tại ba lực lượng chính trị, quân sự chủ yếu là: Pháp (và các thế lực thân Pháp), Mĩ (và các thế lực thân Mĩ) và các lực lượng cách mạng miền Nam. Pháp và các lực lượng thân Pháp nhanh chóng bị gạt bỏ; còn lại hai lực lượng đối lập nhau gay gắt là Mĩ – Diệm và nhân dân miền Nam.

Phía Việt Nam, ngay sau khi Hội nghị Giơnevơ đang đi vào hồi kết, ngày 17/7/1954, Hội nghị BCHTW Đảng (khoá II) họp ở Việt Bắc. Hội nghị đã thảo luận và nhất trí với đường lối và chủ trương mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Mĩ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương…và hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương”. Hội nghị quyết định: “Thay đổi phương châm, chính sách và sách lược đấu tranh cốt để thực hiện một cách thuận lợi mục đích trước mắt. Đây là một sự thay đổi quan trọng về phương châm và sách lược cách mạng, nhưng mục đích của cách mạng vẫn là một”.

Đầu tháng 9/1954, Bộ Chính trị đã kịp thời ra Nghị quyết về “Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách của Đảng”, nêu rõ cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã bước vào một giai đoạn mới với nhiệm vụ là: “Đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá Hiệp định đình chiến để củng cố hoà bình; ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc; giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc”.

Sau 300 ngày thi hành Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam tạm thời chia cắt làm 2 miền. Miền Bắc được giải phóng, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về cơ bản đã hoàn thành; trong lúc đó, miền Nam đang nằm dưới ách thống trị của Mĩ – Diệm. Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đến đây vẫn chưa hoàn thành.

Vì vậy, cuộc đấu tranh vì một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, hoà bình chưa kết thúc; cuộc đấu tranh đó còn phải được tiếp tục dưới nhiều hình thức và bằng những phương pháp thích hợp. Trong cuộc đấu tranh này, Đảng đã lãnh đạo nhân dân hai miền Bắc – Nam tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau: miền Bắc tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam, tiến tới hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất nước nhà. Hội nghị BCHTW lần thứ 8 (khoá II) tháng 8/1955 khẳng định: “Điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam… Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình thế nào, miền Bắc cũng phải được củng cố”.

Nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng của mỗi miền xét cho cùng cũng là nhiệm vụ, mục tiêu chung của cách mạng cả nước là đấu tranh chống đế quốc Mĩ và tay sai, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Mỗi chiến lược cách mạng nhằm giải quyết những yêu cầu cụ thể riêng của từng miền, nhưng có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ, khăng khít, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Cách mạng XHCN ở miền Bắc không chỉ có mục tiêu xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc, mà còn nhằm giải phóng miền Nam, đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nước sau khi đất nước thống nhất. Cách mạng DTDCND miền Nam vừa có nhiệm vụ giải phóng miền Nam, vừa có nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc. Phải dùng sức mạnh của cả nước để giải phóng miền Nam, đồng thời cũng phải sử dụng sức mạnh của cả nước để bảo vệ và xây dựng miền Bắc đi lên CNXH. Mối quan hệ giữa 2 chiến lược cách mạng đồng thời cũng là mối quan hệ giữa hậu phương và tiền tuyến. Thắng lợi giành được ở mỗi miền là thắng lợi chung của sự nghiệp chống Mĩ cứu nước của toàn dân tộc. Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta trong giai đoạn lịch sử 1954 – 1975.

Như vậy, về phía Mĩ, do yêu cầu chiến lược phải ngăn chặn bằng được lực lượng cách mạng ở Đông Nam Á, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mĩ đã chọn Việt Nam làm điểm then chốt; còn một bên là các lực lượng cách mạng mà nhân dân Việt Nam là đội xung kích, cần phải đẩy lùi CNĐQ ra khỏi vị trí chiến lược này để đưa cách mạng tiến lên. Hai lực lượng đối kháng, đại diện cho cách mạng và phản cách mạng đã gặp nhau ở đây, tất yếu dẫn đến cuộc đụng đầu lịch sử. Từ thực tế đó, Việt Nam đã trở thành “một điểm trung tâm, một chặng đường trong quá trình phát triển lâu dài của cách mạng thế giới. Đây là sự đụng đầu tiêu biểu giữa những lực lượng đối lập tiêu biểu của thời đại”. Nói cụ thể hơn, cuộc chiến đấu của dân tộc ta trong giai đoạn lịch sử 1954 – 1975 chống Mĩ xâm lược không phải là một ngẫu nhiên, mà là một cuộc đụng đầu lịch sử trong thời đại chúng ta.

II. Miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất (1954 – 1960) (5 tiết).

1. Thực trạng kinh tế –  xã hội miền Bắc sau năm 1954.

Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, miền Bắc có thêm những điều kiện chính trị – xã hội thuận lợi. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, những khó khăn là không ít, nhất là về kinh tế – xã hội do hậu quả của cuộc chiến tranh để lại.

Trong các vùng nông thôn mới được giải phóng, hậu quả của các cuộc càn quét theo chính sách “tam quang” (đốt sạch, giết sạch, phá sạch), dồn dân lập “vành đai trắng” của địch, hàng vạn hécta đất bị bỏ hoang, đê đập bị phá hoại. Nhân công, nông cụ và sức kéo đều thiếu nghiêm trọng. Kĩ thuật canh tác lạc hậu, đời sống nhân dân thấp kém.

Các thành thị trong thời kì Pháp chiếm đóng mang nặng tính chất tiêu thụ, sự phồn vinh chỉ là giả tạo. Hàng ngoại tràn ngập thị trường làm cho công nghiệp dân tộc không thể phát triển được. Tiểu thủ công nghiệp bị chèn ép, sa sút hoặc phá sản. Ở những cơ sở công nghiệp lớn do thực dân Pháp nắm giữ, như mỏ than Hòn Gai, nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy điện Hà Nội…bị địch tháo dỡ thiết bị hoặc phá hoại trước lúc rút lui nên không hoạt động được, hoặc chỉ hoạt động cầm chừng. Vì thế, nhiều công nhân thất nghiệp, đời sống gặp khó khăn.

Tại các vùng tự do cũ, tuy nông nghiệp và công nghiệp được chú ý phát triển, nhưng quy mô nhỏ bé, kĩ thuật lạc hậu. Do đó, năng suất thấp, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất và đời sống ngày càng tăng lên trong thời bình. Cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 cũng chỉ mới thực hiện ở một số địa phương thuộc vùng tự do. Chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến vẫn tồn tại. Giai cấp nông dân tuy được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân, nhưng vẫn còn bị giai cấp địa chủ bóc lột, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất.

Sau khi hoà bình lập lại, nhiều vấn đề xã hội nóng bỏng đặt ra. Số người mù chữ rất đông. Hệ thống y tế nhỏ bé, lạc hậu. Các bệnh xã hội như lao phổi, hoa liễu, sốt rét..hoành hành. Các tệ nạn mại dâm, nghiện hút, cướp giật, cờ bạc…phổ biến khắp nơi. Hàng trăm ngàn người thất nghiệp, lâm vào cảnh đói kém. 240.000 tề ngụy rã đám chưa qua cải tạo. 11.000 thổ phỉ vẫn tác oai tác quái ở vùng cao…

Một tình hình nghiêm trọng hơn là địch cưỡng ép, dụ dỗ đồng bào miền Bắc, chủ yếu là tín đồ Thiên Chúa giáo di cư vào Nam. Thực ra, âm mưu này của Mĩ đã có từ trước: “Ngay từ khi vấn đề chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương còn đang đàm phán, Tổng thống Mĩ Aixenhao đã lớn tiếng hô hào: Nếu Hội nghị Giơnevơ đi đến kí kết, sẽ tổ chức một cuộc di cư có kế hoạch người Việt Nam từ Bắc vào Nam”.

Để gây hoang mang và thúc ép đồng bào bỏ nhà cửa, tài sản di cư vào Nam, Mĩ – Pháp cho tay sai tung tin bịa đặt, tuyên truyền luận điệu rằng Chính phủ Việt Minh cấm đạo, Chúa đã vào Nam, là con chiên ngoan đạo thì phải theo Chúa để được yên phần xác lẫn phần hồn, ở lại với cộng sản sẽ bị mất linh hồn… Chúng còn đe doạ chiến tranh sẽ trở lại, Mĩ sẽ ném bom nguyên tử xuống Hà Nội, Đồng Hới, Vĩnh Linh… Mặt khác, Mĩ cung cấp phương tiện chuyên chở, “Mĩ đã đưa một đoàn 19 máy bay và một đoàn 41 tàu thuỷ để chuyên chở những người bị cưỡng ép di cư này vào Nam”.

Tính đến tháng 7/1955, tổng số người bị địch dụ dỗ, cưỡng ép di cư vào Nam là 887.895 người, trong đó tín đồ Thiên Chúa giáo là 754.710 người (Phật giáo và Tin Lành là 133.185 người) chiếm tỷ lệ 85%.

Trước tình hình thực tế KT – XH trên, Đảng và Chính phủ chủ trương vừa đấu tranh chống địch cưỡng ép đồng bào di cư, vừa đẩy mạnh cuộc vận động CCRĐ, khôi phục kinh tế, nhằm củng cố miền Bắc, tạo điều kiện đưa miền Bắc bước sang giai đoạn mới.

Cần phải thấy rằng, những khó khăn trên đây đòi hỏi phải được giải quyết nhanh chóng. Điều này không chỉ do sự đòi hỏi cấp bách của việc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, mà còn bao hàm ý nghĩa chính trị sâu sắc, nhất là trong điều kiện nước nhà đang tạm thời bị chia cắt làm hai miền.

2. Đấu tranh chống Mĩ – Diệm cưỡng ép đồng bào di cư.

Ngay sau Hiệp định Giơnevơ, ngày 23/7/1954 Ngô Đình Diệm chỉ thị cho các Tổng trưởng và Bộ trưởng, Uỷ ban Bảo vệ Bắc Việt, Đại biểu Chính phủ ở Trung Việt, Đổng lí Văn phòng Đức Quốc trưởng tại Đà Lạt “Cần phải tổ chức gấp rút chuyển vào Trung và Nam dân chúng và tài sản công”, trong đó ưu tiên trước hết là ngân khố, sau là quân đội chính quy và địa phương quân và gia đình, công chức và gia đình. Về “dân chúng, lưu ý trước tiên đến những phần tử chuyên nghiệp (thợ chuyên môn) và những phần tử có khả năng sản xuất”. Tiến hành chính sách cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam, đế quốc Mĩ và tay sai nhằm mục đích cơ bản sau:

Một là, về mặt chính trị, đối với thế giới, Mĩ và tay sai cố tạo ra dư luận xấu về chế độ ta ở miền Bắc, nhằm ngăn chặn sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân ta, tạo ra ảnh hưởng xấu của cách mạng Việt Nam đối với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tờ Revue Socialist (Pháp) ra ngày 2/11/1954 viết: “Cuộc di cư này trước hết là một hành động chính trị nhằm làm cho dư luận thế giới ngỡ rằng nhân dân Việt Nam chán ghét Việt Minh và chủ nghĩa cộng sản”. Tuy nhiên, âm mưu của Mĩ – Diệm đã bị báo chí phương Tây vạch mặt: “Sự thật, đại đa số nhân dân Việt Nam đều biểu lộ tình cảm của mình đối với Việt Minh”.

Hai là, về KT – XH, đối với miền Bắc, Mĩ – Diệm hi vọng rút được một số lượng trí thức, công nhân kĩ thuật vào Nam, tạo ra những xáo động lớn, phá hoại sản xuất, làm cho miền Bắc không ổn định về kinh tế, khiến cho lòng người li tán, nội bộ lục đục, gây khó khăn cho ta trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và hàn gắn vết thương sau chiến tranh. Đối với miền Nam, vùng bị tạm chiếm, dân di cư sẽ là nguồn cung cấp nhân công rẻ mạt cho các đồn điền cao su, cà phê, chè, cây ăn quả và một số cây công nghiệp mới du nhập vào miền Nam sau Chiến tranh thế giới thứ II. Tài liệu địch nói rõ: “Về kinh tế, đồng bào di cư là những người đã làm ăn một cách cần cù, siêng năng, ưa sống một đời giản dị. Họ hoàn toàn là những nhà sản xuất nhiều và tiêu thụ ít, nên sau này sẽ giúp cho nền kinh tế quốc gia thịnh vượng. Hơn thế, đồng bào bổ khuyết cho tình trạng thiếu nhân công để khai thác trong miền Nam nước Việt. Do đó, những chương trình mở mang kinh tế của Chính phủ cũng có thi hành dễ dàng một phần nào về phương diện nhân công mà không phải là chiếm quyền lợi kinh tế của đồng bào miền Nam”. Derocheau, Phó Thư ký Phòng Cứu tế Giáo dân đến Đông Dương nghiên cứu vấn đề di cư đã cho rằng: “Biện pháp để giải quyết trong việc sử dụng dân di cư là đưa họ lên các đồn điền cao su đang thiếu nhân công”. Với mục đích đó, Mĩ – Diệm đã đưa một số lượng lớn đồng bào di cư đến lao động ở các đồn điền. Theo tờ Le Monde (Pháp) ra ngày 29/1/1955, số người di cư đưa đến các đồn điền là 5 vạn người.

Ba là, ở miền Nam, với số người di cư, địch nhằm “thăng bằng sự chênh lệch giữa dân số miền Bắc 12 triệu và dân số miền Nam 11 triệu. Nghĩa là “tăng thêm hi vọng của thắng lợi tổng tuyển cử đối với những lãnh tụ quốc gia”; đồng thời tạo ra cơ sở xã hội vững chắc cho chế độ Ngô Đình Diệm. Đồng bào di cư là nguồn nhân lực quan trọng đáng kể để xây dựng nguỵ quân, củng cố nguỵ quyền. Tờ Le Monde (Pháp) ra ngày 29/11/1954, viết: “Nhà cầm quyền miền Nam quyết tuyển mộ binh lính trong số những người miền Bắc di cư; họ xem số người miền Bắc như là một khối dự trữ cho quân đội của họ, cho những tổ chức chính trị của họ, trong khối dự trữ đó, họ mộ được những tay chân cuồng tín” và “Thanh niên Công giáo di cư sẽ là nguồn bổ sung cho một đội quân nguỵ dự kiến là 10 sư đoàn… Mĩ – Diệm hi vọng rằng, một quân đội gồm phần lớn là người công giáo sẽ có một tinh thần chống cộng mạnh mẽ”.

Để thực hiện việc cưỡng ép đồng bào di cư, Mĩ – Diệm cho thành lập “Phủ Tổng uỷ di cư tị nạn”, với nhiệm vụ điều khiển việc di cư từ Bắc vào Nam. Bên cạnh “Phủ Tổng uỷ di cư tị nạn”, một tổ chức cứu trợ di cư cũng được thành lập do Linh mục Phạm Ngọc Chi đứng đầu. Tiếp theo, Ngô Đình Diệm còn thành lập “Uỷ ban di cư Bắc Việt” lo việc huấn luyện gián điệp, tổ chức hoạt động dụ dỗ, cưỡng bức di cư. Chính đế quốc Mĩ đã cung cấp nhiều phương tiện vận tải, tiền bạc, thuốc men, lương thực, thực phẩm và cử Hồng y Spellman, Tổng Tuyên uý trong quân đội Mĩ sang Việt Nam để chỉ đạo chiến dịch này. Ngày 2/8/1954, Ngô Đình Diệm đích thân ra Hà Nội kiểm tra công việc tổ chức di cư. Diệm đã trắng trợn tuyên bố rằng: “Tôi sẽ hướng mọi nỗ lực của tôi vào công việc tổ chức di cư”.

Bộ máy chính quyền Diệm tập trung ở mức cao nhất tuyên truyền cho chiến dịch cưỡng ép di cư, rằng cộng sản là vô thần nên “sẽ cấm đạo, ai mang tượng Đức Mẹ phải đóng thuế 50 đồng Đông Dương và mỗi lần đến lễ ở nhà thờ phải trả 5 đồng”. Thâm độc nhất là Mĩ – Diệm lợi dụng sự hiểu biết hạn chế của giáo dân, dựng lên chiêu bài: “Đức Mẹ và con trai là Chúa Giêsu đã vào Nam” để cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam.

Đối tượng mà Mĩ – Diệm tập trung cưỡng ép di cư vào Nam bao gồm nguỵ binh và gia đình của họ, giáo dân, thanh niên, công chức, giáo viên và những người trí thức, nhà chuyên môn… Và để cưỡng bức được nhiều đồng bào di cư vào Nam, cuối tháng 7/1954, địch đóng cửa Ngân hàng Đông Dương, không cho rút tiền ra. Sang tháng 8, địch chuyển tiền vào Nam, buộc những người có tiền gửi ngân hàng phải vào Sài Gòn để lĩnh, .v.v.

Cùng với các biện pháp trên, Mĩ – Diệm còn sử dụng quân đội, công an, cảnh sát để càn quét, khủng bố bắt ép nhân dân di cư. Tại thôn Vạn Lộc (Quảng Bình), địch dùng máy bay thả bom, bắn đạn cháy 34 nhà cùng tất cả tài sản, làm chết 4 người, bắt đi 439 người. Tại Thanh Giã và Giã Khê (Bắc Giang), ngày 29/7/1954, Mĩ – Diệm đã lừa bắt nhân dân xếp đầy 100 xe chở đi mà không ai kịp lấy quần áo, gạo thóc. Tại Móng Cái, ngày 31/7/1954, chúng đã bắt hơn 1.000 người… Không chỉ ở nông thôn, mà cả những thành phố lớn, như Hà Nội, Hải Phòng,… địch cũng sử dụng lực lượng quân sự, công an, cảnh sát,… để vây ráp, bắt nhân dân di cư. Ngày 20/8/1954, chúng vây Quảng Bá (Hà Nội) bắt 20 người; ngày 25/8/1954, vây bãi Phúc Xá (Hà Nội) bắt 50 người… Việc dùng bạo lực cưỡng ép di cư diễn ra phổ biến khắp miền Bắc, nhất là những địa phương có đông tín đồ Thiên Chúa giáo.

Nắm bắt kịp thời âm mưu của Mĩ – Diệm về chính sách cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam, ngày 5/9/1954, Ban Bí thư ra Chỉ thị nêu rõ: “Cuộc đấu tranh chống địch bắt ép một số nhân dân ta vào Nam…là một cuộc đấu tranh chính trị gay go và cấp bách. Các cấp uỷ Đảng phải nhận rõ tính chất và ý nghĩa quan trọng của cuộc đấu tranh này”. Tiếp theo, ngày 6/11/1954, Ban Bí thư ra tiếp Chỉ thị và nhấn mạnh rằng: “Địch đang theo đuổi một âm mưu rất thâm độc để phá chúng ta. Các cấp uỷ phải coi cuộc đấu tranh chống địch nguỵ bắt dân di cư vào Nam là một cuộc vận động chính trị to lớn, một cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt với đối phương, không phải một đôi tuần, một vài tháng, mà là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ. Một mặt phải đối phó kịp thời với những việc bất ngờ xảy ra, một mặt phải có kế hoạch thông suốt, lâu dài để đối phó với toàn bộ âm mưu của địch”.

Sang năm 1955, TW tăng cường chỉ đạo, giải quyết một số vướng mắc, bế tắc trong việc chỉ đạo đấu tranh. Chỉ thị số 07 – CT/TW của Bộ Chính trị ngày 16/2/1955 yêu cầu phải: “Đẩy mạnh đấu tranh mọi mặt, phá âm mưu mới của địch trong việc dụ dỗ, cưỡng ép giáo dân di cư, chủ động tiến công địch, tranh thủ cảm tình của quần chúng, tranh thủ dư luận trong nước và thế giới”. Tiếp theo, Chỉ thị số 16 – CT/TW của Ban Bí thư ngày 21/4/1955 yêu cầu các cấp uỷ Đảng khắc phục ngay những tư tưởng lệch lạc, kiên quyết tập trung lực lượng phát động quần chúng tiến công mạnh mẽ, rộng khắp, toàn diện để phá âm mưu của địch.

Những chủ trương và biện pháp trên đây của Đảng cho thấy chính sách cưỡng ép di cư của Mĩ – Diệm là hết sức thâm độc và đã gây ra những khó khăn nghiêm trọng đối với ta trong việc tiếp quản những vùng do địch chiếm đóng; đồng thời cũng thấy được sự tỉnh táo, sáng suốt của Đảng trước tình thế khó khăn, cấp bách đặt ra. Những chủ trương và biện pháp này từng bước lãnh đạo nhân dân miền Bắc đi vào cuộc đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư.

Thực hiện chủ trương của Đảng, trên nhiều địa phương ở miền Bắc, các Ban Chỉ đạo chống cưỡng ép di cư được thành lập, hàng vạn cán bộ, bộ đội được huy động về giúp các địa phương vận động quần chúng đấu tranh, vạch trần âm mưu và thủ đoạn của địch.

Ở khu Tả ngạn sông Hồng, Mĩ – Diệm đã tạo ra một tình hình hết sức căng thẳng. Tại Kim Động (Hưng Yên), trước khi rút vào khu tập kết, địch đốt phá làng Thiên Chúa giáo Ngọc Đồng rồi vu khống cho Việt Minh. Ở Thanh Miện (Hưng Yên), Tứ Kỳ, Gia Lộc và Cẩm Giàng (Hải Dương), địch cho máy bay thả côn trùng phá hoại mùa màng. Ở Hải Phòng, tại nhà thờ phố Dinh (nay là phố Trần Nguyên Hãn), tháng 1/1955, sau buổi lễ, cha xứ tháo chuông và ảnh Đức Mẹ, chúng ép buộc ai không đi Nam phải bước qua ảnh Đức Mẹ. Giáo dân kinh hoàng, khóc than và tất cả phải kí giấy đồng ý ra đi. Chúng bắt giáo dân ký vào đơn kiện lên Uỷ ban Quốc tế và giám sát đình chiến ở Việt Nam rằng Chính phủ Việt Nam vi phạm điều 14c, 14d của Hiệp định Giơnevơ.

Ngày 6/8/1954, Khu uỷ Tả ngạn ra Chỉ thị 27-CT, phân tích âm mưu của địch, đề ra 6 nhiệm vụ mà các cấp uỷ Đảng, chính quyền cần thực hiện nhằm vận động giáo dân ở lại. Hội nghị cán bộ khu Tả ngạn tháng 8/1954 chỉ rõ: “Tranh thủ giáo dân chống âm mưu cưỡng bức di cư của địch” là một trong 8 công tác cấp bách của toàn Khu. Tiếp theo, Khu uỷ tổ chức các đoàn cán bộ xuống các vùng có đông đồng bào Thiên Chúa giáo, vùng mới giải phóng và nơi địch sắp rút quân, làm công tác vận động. Nhiều giáo dân chuẩn bị đi, sau khi nghe cán bộ tuyên truyền, giải thích, đã quyết định ở lại; hoặc nhiều người đang đi thì trốn về. Từ ngày 21/7 đến ngày 18/8/1954, toàn Khu vận động được 56 gia đình (khoảng 4.370 người) đang đi quay trở lại.

Tỉnh Nam Định, có 936 giáo dân  đến gặp chính quyền ta tố cáo kẻ chủ mưu dụ dỗ, cưỡng ép họ bỏ nhà ra đi. Giáo dân ở đây cũng đã kịp thời báo cáo và giúp đỡ chính quyền cách mạng đập tan âm mưu của bọn đầu sỏ tập trung giáo dân ở 14 xứ đạo về Xuân Ninh (Xuân Trường) dụ dỗ họ di cư hàng loạt.

Đối với những phần tử ngoan cố, vi phạm pháp luật Nhà nước, ta kiên quyết trừng trị. Ngày 1/11/1954, Uỷ ban Hành chính tỉnh Ninh Bình ra lệnh giải tán các trại tập trung ở Phát Diệm. Hàng ngàn đồng bào tấp nập quay về. Trong năm 1955, các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình đã phát hiện và xử lí 17 vụ phản động tấn công vào bộ đội, 4 vụ gài mìn.v.v.

Ở Tĩnh Gia (Thanh Hoá), Mĩ – Diệm chọn Ba Làng làm tụ điểm tập trung giáo dân, biến nơi đây thành điểm tập kết, gây sức ép để Uỷ ban Quốc tế can thiệp. Ngày 5/12/1954, địch đã bắt ép một số đông giáo dân tập trung vào nhà xứ để chờ đi Nam. Để thực hiện âm mưu, chúng tổ chức một ổ võ trang có hệ thống ở Ba Làng. Trước tình hình đó, ngày 18/12/1954, Thường vụ Tỉnh uỷ Thanh Hoá họp, ra Nghị quyết: “Tích cực đẩy mạnh đoàn kết, tuyên truyền, giáo dục, phát động quần chúng trấn áp phản động” và chủ trương: “Tước vũ khí, bắt đầu sỏ, giải phóng nhân dân, đẩy mạnh tuyên truyền, phân hoá từng loại để xử lí”. Bằng nhiều biện pháp khác nhau, đến ngày 20/12/1954, ta đã giải tán được trên 2.000 giáo dân từ các nơi kéo về Ba Làng tập trung. Mặc dù vậy, địch vẫn ngoan cố, tiếp tục tổ chức lực lượng võ trang, lùng bắt cán bộ, cướp vũ khí của bộ đội, phá tài sản của nhân dân. Chúng còn liên lạc với tàu Pháp ở ngoài biển để đưa dân đi Nam. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Thanh Hoá, ngày 3/1/1955, ta dùng hệ thống loa phát thanh giải thích chính sách của Đảng và Chính phủ, vạch rõ âm mưu thâm độc của địch và vận động các gia đình kêu gọi người thân trở về. Địch tiếp tục dùng lực lượng vũ trang kìm hãm giáo dân, nổ súng làm một số cán bộ, bộ đội hi sinh, 40 đồng chí bị thương, 6 cán bộ, bộ đội bị chúng bắt giữ. Tuy vậy, ta vẫn kiên trì giải thích chính sách của Đảng, song địch vẫn ngoan cố chống lại. Ngày 8/1/1955, lực lượng của ta buộc phải tiến vào bên trong để giải thoát cho những đồng bào bị địch giam giữ và trừng trị những tên phản động. Địch huy động thanh niên dùng vũ khí xông vào đâm chém. Mặc dù có người bị thương nặng, nhưng các chiến sĩ của ta vẫn bình tĩnh chống đỡ, rồi giải thích cho nhân dân; mặt khác kiên quyết trừng trị bọn chủ mưu. Bọn phản động bị cô lập, hơn 1.000 giáo dân, 6 cán bộ, bộ đội bị giam giữ được giải thoát. Tiếp theo, Toà án nhân dân Thanh Hoá mở phiên toà xét xử bọn phản động cầm đầu gây ra vụ bạo loạn ở Ba Làng nhằm đưa đồng bào di cư vào Nam.

Tại Diễn Tiến (Nghệ An), tháng 4/1955, địch cho 17 tên phản động từ trong Nam ra, tổ chức một đội vũ trang 100 người, được trang bị giáo mác, kết hợp với bọn phản động địa phương lôi kéo giáo dân đi Nam, kích động bạo loạn… Trước tình hình đó, Liên khu IV và Tỉnh đội Nghệ An đã chỉ đạo và phối hợp với địa phương đấu tranh chống địch. Ta tổ chức, giáo dục, huấn luyện 1.000 đồng bào đi vào đám đông, giải thích rõ âm mưu của kẻ thù, khuyên bà con trở về làm ăn. Tiếp đó, ta cho một đội vũ trang vào nhà thờ Diễn Tiến bắt 5 tên phản động đội lốt linh mục đưa ra trước quần chúng buộc phải công khai thú tội.

Tại xã Thạch Tân (Hà Tĩnh), địch tổ chức một đội “cảm tử vì đạo” gồm 30 người có vũ trang, cưỡng ép giáo dân bán nhà, làm đơn gửi lên chính quyền đòi đi Nam. Trước hành động ngang ngược của địch, ta bắt 3 tên đầu sỏ, đồng thời giải thích cho dân hiểu rõ âm mưu của địch. Kết quả, đã có 70 gia đình xin ở lại.

Ở Vĩnh Linh (Quảng Trị), số người di cư đổ dồn về đây để vượt giới tuyến vào Nam đông tới hàng vạn người. Tình hình này đã gây ra những khó khăn, phức tạp đối với ta khi hoà bình mới lập lại. Căn cứ vào chủ trương của TW và tình hình thực tế địa phương, Đảng uỷ khu vực đề ra chủ trương chống địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam. Ban chống cưỡng ép di cư được thành lập, gồm 28 đồng chí, phân công nhau về cơ sở bám địa bàn, bám dân, tuyên truyền, giải thích chính sách tôn giáo của Đảng, giúp giáo dân sửa lại nhà thờ, giải quyết khó khăn về đời sống, đẩy mạnh việc tăng gia sản xuất, nổi lên là công tác vận động ở hai nhà thờ lớn nhất là Di Loan và Phước Sơn. Ngoài ra, Ban chống cưỡng ép di cư còn lập nhiều trạm dọc Quốc lộ 1 để đón khoảng trên 2 vạn giáo dân từ các tỉnh miền Bắc bị mắc mưu địch di cư vào Nam, giải thích cho giáo dân rõ về âm mưu của Mĩ – Diệm trong việc dụ dỗ, cưỡng ép, lừa gạt giáo dân di cư vào Nam.

Cuộc đấu tranh chống địch dụ dỗ và cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam diễn ra rất phức tạp. Nhờ sự lãnh đạo kịp thời, kiên quyết của Đảng và Chính phủ, cán bộ, bộ đội, công an ta kiên trì, chịu đựng gian khổ, hi sinh, bám sát nhân dân nên đã hạn chế được hành động của địch đưa người vào Nam ồ ạt, chúng ta thu được một số thắng lợi nhất định. Tuy vậy, khách quan mà nói, trong phong trào đấu tranh, chúng ta còn bộ lộ một số hạn chế. Chỉ thị số 16-CT/TW ngày 21/4/1955 của Ban Bí thư vạch rõ nguyên nhân mắc khuyết điểm: “Ở Trung ương, kế hoạch còn nặng về đối phó, thiếu chủ động tiến công địch; chưa huy động đủ lực lượng cần thiết để thực hiện kế hoạch chống cưỡng ép di cư. Bộ phận chỉ đạo công tác chống địch cưỡng ép di cư và bộ phận chuyên trách việc này trong Uỷ ban liên hiệp đình chiến Trung ương còn yếu… Nhiều địa phương vẫn còn chưa thấy hết âm mưu địch, cho nên vẫn còn chủ quan, thấy việc thì đối phó, xong việc lại lơ là. Chỉ đạo chưa được tăng cường một cách thường xuyên, chưa có bộ phân chuyên trách dứt khoát và có đủ cán bộ”. Như ở Thanh Hoá, ta chưa bám sát dân, đặc biệt là trong vụ phiến loạn Ba Làng (Tĩnh Gia) cuối năm 1954, đầu năm 1955, tuy “được quần chúng ủng hộ mà không thấy được giáo dục, phát động quần chúng để trấn áp địch…nên đã kéo dài tình trạng khổ cực của nhân dân trong một thời gian dài”. Ở Vĩnh Linh (Quảng Trị), “do ta chậm phát hiện âm mưu thâm độc của địch, công tác vận động đồng bào theo đạo Thiên Chúa của ta có sơ hở nên bọn phản động đã đưa được 7.164 đồng bào giáo dân ở địa phương Vĩnh Linh di cư vào Nam”. Nếu tính chung cả miền Bắc thì địch đã đưa hơn 2/3 giáo dân di cư vào Nam. Theo tạp chí Missi, cơ quan ngôn luận Thiên Chúa giáo (Pháp) số tháng 2/1956, trước cuộc di cư giáo dân ở phía Bắc vĩ tuyến 17 có 1.133.000 người; sau cuộc di cư chỉ còn 457.000 người.

Những hạn chế trên đây đã giúp chúng ta rút được những bài học kinh nghiệm quý báu trong cuộc đấu tranh cách mạng ở các giai đoạn tiếp theo.

2. Hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế (1954 – 1957).

a/ Hoàn thành CCRĐ

Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế và yêu cầu về quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, nhằm củng cố khối liên minh công nông, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, Uỷ bản CCRĐ Trung ương ra Nghị quyết: “Đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện CCRĐ”.

– CCRĐ lần 1, là một cuộc thí điểm, diễn ra ở 6 xã của huyện Đại Từ (Thái Nguyên), từ 25/12/1953 đến 30/3/1954.

– Tháng 11/1953, Hội nghị TW Đảng cũng thông qua “Cương lĩnh ruộng đất” với nội dung chủ yếu là: “Dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông, tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước có phân biệt, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến”.

– Từ 1 – 4/12/1953, Quốc hội (khoá I) họp kỳ 3 thông qua Luật CCRĐ, đến 19/12/1953 Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh ban hành.

– Kỳ họp thứ 4 (20 – 26/3/1955), Quốc hội khẳng định tầm quan trọng của CCRĐ là: “Đối với miền Bắc…CCRĐ là cơ sở cần thiết cho mọi công trình khôi phục, xây dựng và phát triển về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội”…

Thực hiện chủ trương của TW, đợt 6 giảm tô và đợt 2 của CCRĐ là những việc đầu tiên được tiến hành trong hoàn cảnh đất nước hoà bình. Từ đó, việc đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện CCRĐ bắt đầu lan rộng ở vùng trung du và vùng đồng bằng mới giải phóng. Từ sau hoà bình lập lại cho đến tháng 7/1956, CCRĐ ở miền Bắc được tiến hành liên tiếp 4 đợt, từ đợt 2 đến đợt 5. Cụ thể:

– Đợt II (23/10/1954 – 15/1/1955) ở 22 xã của Thái Nguyên, 100 xã của Phú Thọ, 22 xã của Bắc Giang và 66 xã của Thanh Hoá (tổng là 210 xã)

– Đợt III (18/2/1955 – 20/6/1955) ở 106 xã của Phú Thọ, 84 xã của Bắc Giang, 65 xã của Vĩnh Phúc, 22 xã của Sơn Tây, 115 xã của Thanh Hoá, 74 xã của Nghệ An (tổng là 466 xã)

– Đợt IV (27/6/1955 – 31/12/1955) ở 17 xã của Phú Thọ, 1 xã của Bắc Giang, 111 xã của Vĩnh Phúc, 60 xã của Bắc Ninh, 71 xã của Sơn Tây, 98 xã của Hà Nam, 47 xã của Ninh Bình, 207 xã của Thanh Hoá, 5 xã của Nghệ An, 227 xã của Hà Tĩnh (tổng là 895 xã).

– Riêng đợt 5 (từ 25/12/1955 – 30/7/1956), tiến hành ở 1.720 xã thuộc 20 tỉnh và 2 thành phố (8 xã của Bắc Ninh, 45 xã Ninh Bình, 163 xã Nghệ An, 6 xã Hà Tĩnh, 118 xã Quảng Bình, 21 xã Vĩnh Linh, 217 xã Hải Dương, 149 xã Hưng Yên, 294 xã Thái Bình, 83 xã Kiến An, 47 xã Hà Nội, 9 xã Hải Phòng, 40 xã Hồng Quảng). Đây là những vùng trước đó không lâu còn bị địch chiếm đóng, vì thế so với các đợt trước, đợt 5 diễn ra gay go, phức tạp.

Qua 5 đợt CCRĐ, 1.595.203 ha ruộng đất(có chỗ nói là trên 810 nghìn ha), 10 vạn trâu bò, 1,8 triệu nông cụ, gần 150 nghìn nhà cửa từ tay giai cấp địa chủ được chia cho trên 2 triệu hộ nông dân (khoảng trên 8,3 đến 10 triệu nhân khẩu). Khẩu hiệu “người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực. Giai cấp địa chủ và tàn dư của chế độ phong kiến ở miền Bắc bị xoá bỏ. Giai cấp nông dân được giải phóng và được đưa lên địa vị người chủ ở nông thôn. Với thành quả này, miền Bắc “đã căn bản hoàn thành nhiệm vụ phản phong kiến”. Thắng lợi của cuộc CCRĐ là thành tựu to lớn của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Tuy vậy, khi đợt 5 đang đi vào thời điểm kết thúc, Đảng và Chính phủ phát hiện ra những sai lầm nghiêm trọng trong quá trình CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức. Đó là sự vi phạm đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn (xâm phạm lợi ích của trung nông, không liên hiệp với phú nông, không phân biệt đối xử với các loại địa chủ, không chiếu cố địa chủ kháng chiến), cường điệu việc trấn áp phản cách mạng; không dựa vào tổ chức cũ, mắc chủ nghĩa thành phần; nghiêm trọng nhất là trong việc chỉnh đốn tổ chức. Từ đó dẫn đến một số nông dân, cán bộ, đảng viên,…bị quy nhầm là địa chủ. Một số địa chủ kháng chiến, những người thuộc tầng lớp trên có công với cách mạng cũng bị đưa ra đấu tố. Sai lầm còn thể hiện ở phương pháp đấu tranh còn thô bạo.

Nguyên nhân sâu xa của những sai lầm trên là do không nắm vững vấn đề dân tộc và giai cấp ở nước ta, không thấy được những biến đổi to lớn về sở hữu ruộng đất, về giai cấp địa chủ và chế độ phong kiến ở nông thôn miền Bắc từ sau Cách mạng tháng Tám. Thật vậy, nếu “căn cứ vào số ruộng đất đã chia cho nông dân trong CCRĐ, căn cứ tác hại rất nghiêm trọng của sai lầm CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức, thì chủ trương CCRĐ như đã làm là không cần thiết. Đó là vì trước khi tiến hành CCRĐ, giai cấp địa chủ, chế độ phong kiến đã căn bản bị xoá bỏ và mục tiêu người cày có ruộng đã căn bản được thực hiện với tỷ lệ 2/3 ruộng đất đã về tay nông dân, với quyền làm chủ của nông dân trong nông thôn đã được thực hiện từ Cách mạng tháng Tám đến kháng chiến chống Pháp…”.

Mặt khác, trong tiến hành CCRĐ, không giữ vững đường lối độc lập tự chủ, áp dụng máy móc, giáo điều kinh nghiệm nước ngoài một cách giản đơn, nên trong chỉ đạo đã cường điệu tính chất đấu tranh giai cấp ở nông thôn, ngả sang tả, đánh nhầm vào nội bộ nông dân, đặc biệt là tầng lớp trung nông lớp trên. “Đó là những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến, kéo dài về nhiều mặt, những sai lầm về những vấn đề nguyên tắc, trái với chính sách của Đảng, … trái với chế độ pháp luật của Nhà nước… Những sai lầm đó không những đã hạn chế những thắng lợi đã thu được, mà lại gây ra nhiều tổn thất…ảnh hưởng tai hại đến chính sách mặt trận của Đảng…, làm cho tình hình nông thôn căng thẳng…”.

Những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ đã gây tổn thất lớn cho nhân dân và hạn chế nhất định những thành quả CCRĐ.

Ngay trong tháng 4/1956, khi phát hiện ra những sai lầm, Đảng và Chính phủ đã có chỉ thị sửa chữa. Ngày 18/8/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào nông thôn và cán bộ, chỉ rõ những thắng lợi và những sai lầm trong CCRĐ. Tháng 9/1956, Hội nghị lần thứ 10 BCHTW Đảng họp, thảo luận và đi đến kết luận về những thắng lợi và những sai lầm trong CCRĐ. Hội nghị khẳng định: “Chúng ta không sợ vạch rõ sai lầm, khi thấy sai lầm thì chúng ta kiên quyết sửa chữa được”; đồng thời Hội nghị đề ra một số chủ trương, biện pháp để sửa chữa sai lầm, như khôi phục danh dự, quyền lợi cho những người bị xử oan và thi hành kỷ luật đối với một số cán bộ có trách nhiệm.

Tiếp theo, tháng 10/1956, Hội đồng Chính phủ họp thực hiện nhiệm vụ sửa sai, đã nhận định: “Công tác CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Luật CCRĐ hợp tình hợp lí do Quốc hội thông qua không được chấp hành nghiêm chỉnh. Pháp luật Nhà nước không được tôn trọng. Chế độ pháp trị dân chủ bị xâm phạm. Những sai lầm ấy đã gây nhiều tổn thất trong nhân dân, đụng chạm đến tình cảm và đời sống bình thường của nhân dân, có hại cho chính sách đại đoàn kết của Mặt trận dân tộc thống nhất. Nó hạn chế những kết quả đã thu được trong CCRĐ và gây cho chúng ta nhiều khó khăn”. Chính phủ tự kiểm điểm “nhận thấy sâu sắc trách nhiệm về mình” và quyết định thay đổi về mặt tổ chức: “Từ nay các Uỷ ban CCRĐ Trung ương và địa phương không có quyền chỉ đạo mà chỉ là những cơ quan nghiên cứu trực thuộc chính quyền các cấp. Bãi bỏ các Toà án đặc biệt”; đồng thời Chính phủ cũng quyết định thi hành kỷ luật đối với một số cán bộ liên quan. Mặt khác, TW quyết định phục hồi những chi bộ Đảng bị giải tán sai, sửa lại thành phần cho những cá nhân bị quy sai, khôi phục đầy đủ quyền lợi, danh dự, công tác cho những người bị xử lý sai, bãi bỏ mọi hình thức quản chế đối với những trường hợp bị quy sai là Việt gian, phản động; chấp hành nghiêm các chế độ, chính sách đối với các gia đình quân nhân cách mạng, các chính đảng, tôn giáo, dân tộc, các địa chủ có công với kháng chiến.

Ngày 8/12/1956, trong cuộc nói chuyện tại Trường Đại học Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ: “Chế độ dân chủ cộng hoà của ta dù có những sai lầm thiếu sót vì chúng ta còn thiếu kinh nghiệm và còn có nhiều khó khăn. Đảng và Chính phủ chỉ lo việc phục vụ lợi ích của nhân dân, trước hết là của nhân dân lao động chân tay và lao động trí óc. Trong CCRĐ, cán bộ đã phạm sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng, cần phải kiên quyết sửa chữa, nhưng không nên vì sai lầm, khuyết điểm mà bi quan. Trái lại vẫn vững lòng tin tưởng vào Đảng và Chính phủ”.

Do có chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng và được toàn dân ủng hộ, nên đến cuối năm 1957, công tác sửa sai đã đem lại kết quả tốt. Nông thôn dần dần đi vào ổn định, nội bộ Đảng đoàn kết, lòng tin của nhân dân được khôi phục, sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, khối liên minh công nông được củng cố, chính quyền nhân dân được ổn định và sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường, nhờ đó ý nghĩa thắng lợi của CCRĐ vẫn hết sức to lớn. Bộ mặt nông thôn miền Bắc có nhiều thay đổi. Thắng lợi của CCRĐ đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.

b/ Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh

Chủ trương và phương châm khôi phục kinh tế được Chính phủ trình trước Quốc hội khoá I, kì họp thứ 4 (3/1955) và được Quốc hội thông qua tại kì họp thứ 5 (9/1955). Mục tiêu là khôi phục cơ sở sản xuất và mức sản xuất bằng trước chiến tranh (1939); đồng thời “phải thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với chế độ dân chủ nhân dân. Phương châm khôi phục gồm 5 điểm cụ thể:

1) Chủ yếu phải khôi phục nông nghiệp, chú trọng công tác CCRĐ, rất coi trọng giao thông vận tải, chăm lo khôi phục, xây dựng một số công trình cần thiết, chú trọng gây cơ sở cho công nghiệp hoá.

2) Khôi phục kinh tế phải theo đường lối chung là phát triển sản xuất làm cho kinh tế dồi dào, công tư đều được chiếu cố, lao động và tư bản đều có lợi, thành thị và thôn quê giúp đỡ lẫn nhau, mở rộng trao đổi giữa trong và ngoài nước.

3) Khôi phục phải đi đôi với cải tạo nền kinh tế cũ còn nặng tính chất phong kiến, thực dân và di tích chiến tranh, thành nền kinh tế độc lập, dân chủ, phục vụ dân sinh.

4) Tăng cường một cách vững chắc bộ phận kinh tế quốc doanh và chăm lo xây dựng dần dần bộ phận kinh tế hợp tác xã, phát huy đến cao độ tính tích cực của quảng đại quần chúng lao động ở thành thị và thôn quê; hướng dẫn, khuyến khích và giúp đỡ công việc làm ăn, buôn bán của các tầng lớp tiểu tư sản và công cuộc kinh doanh của tư sản dân tộc.

5) Trong khôi phục kinh tế phải thực hiện sự phát triển cân đối giữa các ngành: nông nghiệp, giao thông vận tải, công nghiệp, xây dựng lại các thành phố bị tàn phá, thương mại”.

Các phương châm kể trên đều quán triệt đường lối đại đoàn kết toàn dân theo Cương lĩnh Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam nhằm xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự chỉ đạo và quản lí của Nhà nước dân chủ nhân dân.

* Khôi phục sản xuất nông nghiệp:

Đối với nền kinh tế quốc dân nói chung, kinh tế nông nghiệp có vị trí hết sức quan trọng. Nông nghiệp cung cấp lương thực, nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp. Sản xuất nông nghiệp được khôi phục mới giải quyết được vấn đề lương thực, làm cơ sở cho việc khôi phục và phát triển các ngành kinh tế khác, nâng cao mức sống cho nhân dân, do đó, sẽ củng cố vững chắc khối liên minh công nông. Vì vậy, Đảng và Nhà nước chủ trương lấy khôi phục nông nghiệp làm chủ yếu, trên cơ sở đó khôi phục toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Giai cấp nông dân miền Bắc, với niềm phấn khởi và tin tưởng vô hạn vì mới được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và được chia ruộng đất, đã tích cực hưởng ứng phong trào khôi phục và phát triển sản xuất. Vượt qua mọi khó khăn, thiếu thốn, nông dân đã ra sức khai hoang, chống hạn, bảo đảm cấy hết diện tích ruộng đất, tăng thêm đàn trâu bò, sắm thêm nông cụ… Đến cuối năm 1957, những vết thương chiến tranh trên đồng ruộng đã hàn gắn xong: 125.000 mẫu ruộng hoang đã trở thành những cánh đồng xanh tốt; 12 hệ thống nông giang bị địch phá hoại trong chiến tranh được sửa chữa, cùng với việc xây dựng những công trình thuỷ nông mới, như đập nước Đô Lương (Nghệ An), Bái Thượng (Thanh Hoá), Thác Huống (Bắc Giang); hệ thống đê điều dài 3.500km bị hư hỏng trong chiến tranh cũng được sửa chữa, củng cố lại;…

Kết quả, sản lượng lương thực và hoa màu tăng nhanh. Trong thời gian này, tổng sản lượng lương thực hàng năm đạt 4.000.000 tấn, vượt xa mức trước chiến tranh (năm 1939 đạt 2.407.000 tấn). Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt bình quân hàng năm là 680.000 tấn, gấp 3 lần năm 1939 (220.000 tấn). Do vậy, nạn đói có tính chất kinh niên ở miền Bắc bước đầu được giải quyết, đời sống nhân dân lao động được cải thiện một bước quan trọng.

* Khôi phục sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp:

Do bị chính sách thuộc địa của thực dân Pháp kìm hãm, nền công nghiệp Việt Nam nói chung, công nghiệp miền Bắc nói riêng, rất nhỏ bé. Công nghiệp nặng miền Bắc hầu như không đáng kể (cuối năm 1954, giá trị sản lượng công nghiệp chiếm 1,5% tổng sản lượng công nông nghiệp). Công nghiệp nhẹ đã nhỏ bé lại bị chiến tranh tàn phá, kĩ thuật lạc hậu. Từ thực tế đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương trước hết phải tập trung khôi phục và phát triển công nghiệp nhẹ, đồng thời củng cố và phát triển công nghiệp nặng trong phạm vi cần thiết và có khả năng.

Giai cấp công nhân nêu cao tinh thần tự lực tự cường, kết hợp với việc sử dụng có hiệu quả viện trợ của các nước anh em, đã nhanh chóng khôi phục và mở rộng hầu hết các cơ sở công nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp quan trọng, như mỏ than Hòn Gai, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy điện Hà Nội. Một số nhà máy mới được xây dựng thêm, như nhà máy cơ khí Hà Nội, nhà máy diêm Thống Nhất, nhà máy gỗ Cầu Đuống, nhà máy thuốc lá Thăng Long, nhà máy cá hộp Hải Phòng, nhà máy chè Phú Thọ… Trong đó, việc xây dựng nhà máy cơ khí Hà Nội là sự kiện quan trọng trong lịch sử phát triển công nghiệp Việt Nam. Đây là cơ sở đầu tiên của ngành chế tạo máy ở nước ta. Đến cuối năm 1957, miền Bắc có tất cả 97 nhà máy, xí nghiệp do Nhà nước quản lý.

Cùng với việc khôi phục và phát triển công nghiệp, các ngành thủ công nghiệp cũng được phục hồi nhanh chóng. Đến năm 1957, số thợ thủ công tăng lên gần 460.000 người (gấp 2 lần so với năm 1941, là năm mà ngành thủ công nghiệp phát triển cao nhất trước Cách mạng tháng Tám). Ngành thủ công nghiệp đã cung cấp 58,8% số hàng hoá công nghiệp trong nước. Các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, nông cụ, dệt, may mặc, làm muối…đều vượt mức trước năm 1941.

Nhìn chung, trong 3 năm khôi phục kinh tế, giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp hàng năm tăng khá nhanh. Năm 1955 đạt 213.500 triệu đồng; năm 1956 đạt 432.000 triệu đồng; năm 1957 đạt 573.000 triệu đồng.

* Khôi phục ngành thương nghiệp:

Sau khi hoà bình lập lại, một vùng đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu, có nhiều thóc gạo và nông phẩm…được giải phóng; mặt khác, sự lũng đoạn của tư bản Pháp bị thủ tiêu trên thị trường miền Bắc. Đó là những thuận lợi cơ bản cho việc mở rộng hoạt động thương nghiệp.

Tuy nhiên, trong tình hình mới, nền thương nghiệp miền Bắc cũng gặp nhiều khó khăn. Nhu cầu cung cấp tăng lên trong khi sản xuất công, nông nghiệp bị chiến tranh tàn phá nặng nề, không đủ sức cung cấp cho thị trường khối lượng hàng hoá cần thiết. Bên cạnh nền thương nghiệp độc lập, tự chủ, phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh trong các vùng tự do cũ, lại có thêm thương nghiệp vùng mới giải phóng còn mang tính chất phụ thuộc kinh tế thực dân. Phần lớn hàng hoá giao lưu trên thị trường nằm trong tay tư nhân. Thương nghiệp XHCN còn nhỏ bé.

Căn cứ vào tình hình cụ thể trên, Nhà nước chủ trương chuyển hoạt động thương nghiệp theo hướng phục vụ sản xuất, phục vụ nhân dân; hướng dẫn một số thương gia trước đây buôn bán những mặt hàng không cần thiết sang kinh doanh công nghiệp; tăng cường mậu dịch quốc doanh, làm cho mậu dịch quốc doanh phát huy tác dụng đối với đời sống nhân dân. Hệ thống mậu dịch quốc doanh và HTX mua bán được mở rộng và cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng cho nhân dân. Việc giao lưu hàng hoá giữa các địa phương ngày càng phát triển. Hoạt động thương mại dần dần tập trung trong tay Nhà nước. Quan hệ buôn bán với nước ngoài bước đầu được tăng cường. Đến năm 1957, miền Bắc nước ta đã đặt quan hệ thương mại với 27 nước trên thế giới.

* Khôi phục ngành giao thông vận tải:

Hệ thống giao thông miền Bắc dưới thời Pháp thuộc rất lạc hậu, lại bị tàn phá, hư hỏng nghiêm trọng trong thời gian chiến tranh. Trước khi rút quân khỏi miền Bắc, thực dân Pháp tiếp tục phá hoại hoặc mang đi hầu hết các thiết bị máy móc…

Sau hoà bình, với yêu cầu, nhiệm vụ khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá, cải thiện đời sống nhân dân và tăng cường quốc phòng, Nhà nước chủ trương khôi phục nhanh chóng đường xe lửa, đường ô tô, vận tải sông ngòi, bưu điện… Đây chính là những công tác có ý nghĩa quan trọng bậc nhất, là điều kiện không thể thiếu trong việc phát triển sản xuất, xây dựng kinh tế.

Cuối năm 1957, trên toàn miền Bắc, nhân dân ta đã khôi phục được 681km đường sắt (quan trọng nhất là tuyến đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn); khôi phục và làm thêm được 10.607km đường ô tô. Các bến cảng, cửa sông được tu sửa và củng cố, góp phần rất quan trọng trong việc phát triển giao lưu hàng hoá, phục hồi kinh tế. Đường hàng không dân dụng quốc tế được khai thông.

Tóm lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự nỗ lực của toàn dân, mà nòng cốt là công nông, đến năm 1957, miền Bắc đã có những đổi thay về nhiều mặt. Thành phần kinh tế thực dân, phong kiến bị xoá bỏ; thành phần kinh tế quốc doanh chiếm ưu thế và đã nắm toàn bộ hoặc phần lớn những ngành then chốt, chiếm 58% giá trị sản lượng trong công nghiệp, 100% trong các ngành ngân hàng, xây dựng cơ bản, bưu điện, đường sắt, 61% trong các ngành thương nghiệp, 97% trong ngành ngoại thương…

* Phát triển văn hoá, giáo dục, y tế:

Nhiệm vụ phát triển giáo dục được Chính phủ đặt ra một cách thực tế: “Củng cố và phát triển bình dân học vụ, thống nhất và củng cố ngành phổ thông, chú trọng phát triển các lớp của trung học (cấp III), đặc biệt chú trọng phát triển đại học… Mở rộng cơ sở rèn luyện cán bộ”. Nhiệm vụ trên được triển khai thành 5 công tác lớn là:

1) Phát triển giáo dục phổ thông;

2) Phát triển đại học và trung học chuyên nghiệp;

3) Thanh toán nạn mù chữ và bổ túc văn hoá;

4) Phát triển giáo dục miền núi;

5) Ổn định tình hình và phát triển giáo dục đối với học sinh miền Nam tập kết.

Kết quả, so với năm 1939, các chỉ tiêu tăng lên khá cao, cả về số lượng trường sở, về tổng số học sinh, sinh viên, số người được thanh toán nạn mù chữ, được bổ túc văn hoá, số học sinh miền Nam tập kết được sắp xếp vào các trường… So với năm học 1939 – 1940 thì năm học 1957 – 1958, chúng ta có các số liệu cụ thể sau:

– Tổng số trường học, từ 4.413 lên 5.007

– Tổng số giáo viên, từ 8.365 lên 23.340

– Tổng số học sinh vỡ lòng, từ 82.000 lên 857.000

– Tổng số học sinh phổ thông, từ 417.000 lên 1.008.000

– Tổng số sinh viên đại học, từ 582 lên 3.664, trong đó có 306 nữ sinh viên.

Công tác y tế được coi trọng, nhiều bệnh xã hội, truyền nhiễm bị đẩy lùi. Cuối năm 1957, miền Bắc đã có 55 bệnh viện, 13 viện điều dưỡng, 85 bệnh xá, 19.700 giường bệnh, 362 nhà hộ sinh. Năm 1939, cả Đông Dương chỉ có 138 thầy thuốc, thì đến năm 1957 miền Bắc đã có 49 bác sĩ, 1.087 y sĩ trung cấp, 175 dược sĩ trung cao cấp, 683 nữ hộ sinh và 6.641 y tá.

Nghệ thuật và văn hoá quần chúng được Đảng và Nhà nước quan tâm phát triển, góp phần quan trọng vào sự nghiệp khôi phục kinh tế. Phương châm chung là phát triển nền văn hoá dân tộc, học tập văn hoá tiên tiến của thế giới, trước hết là của các nước bạn, quét sạch tàn dư văn hoá nô dịch. Phát triển sinh hoạt văn hoá vui tươi, lành mạnh trong nhân dân, gây phấn khởi sản xuất và đấu tranh chính trị. Ba nhiệm vụ chính được triển khai trong văn hoá, nghệ thuật là:

1) Phát triển văn hoá quần chúng;

2) Phục hồi và bước đầu phát triển nghệ thuật;

3) Đẩy mạnh việc trao đổi văn hoá với nước ngoài.

Trên cơ sở thực hiện 3 nhiệm vụ trên đây, các ngành văn hoá quần chúng như xuất bản và phát hành sách, báo, thư viện, chiếu bóng, biểu diễn văn nghệ đều được phát triển. Cụ thể, sách xuất bản năm 1957 tăng gấp 6 lần so với năm 1939. Năm 1957 đã xây dựng được 33 thư viện với 458.000 cuốn sách. Tới tháng 9/1956 đã có 53 câu lạc bộ văn hoá của các xí nghiệp, cơ quan, công trường và 732 nhà văn hoá nông thôn. Năm 1957, ngoài 5 rạp hát quốc doanh, còn có 35 rạp hát tư doanh được Chính phủ cho phép hoạt động.v.v. Các tổ chức văn hoá, văn nghệ được củng cố và phát triển thêm, như Đại hội Văn công toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức năm 1955. Hội liên hiệp văn học – nghệ thuật, Hội mĩ thuật Việt Nam, Hội nhà văn Việt Nam, Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Hội nhạc sĩ Việt Nam lần lượt ra đời. Giao lưu nghệ thuật với nước ngoài phát triển. Chúng ta đã đón tiếp nhiều đoàn nghệ thuật nước ngoài đến biểu diễn và cử nhiều đoàn văn công đi dự các cuộc liên hoàn nghệ thuật quốc tế và biểu diễn ở một số nước bạn bè, anh em.

Đánh giá về những thành tựu mà nhân dân miền Bắc đã giành được trong 3 năm (1954 – 1957), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trải qua thời gian ba năm, nhân dân miền Bắc đã ra sức khắc phục khó khăn, lao động sản xuất, thu được những thành tích to lớn trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, bước đầu phát triển văn hoá, giảm bớt khó khăn và dần dần cải thiện đời sống cho nhân dân cả miền đồng bằng và miền núi. Cải cách ruộng đất căn bản hoàn thành, công việc sửa chữa sai lầm phát huy thắng lợi trong nhiều địa phương đã làm xong và thu được kết quả tốt. Nông nghiệp đã vượt hẳn mức trước chiến tranh. Công nghiệp đã khôi phục các xí nghiệp cũ, xây dựng một số nhà máy mới. An ninh trật tự được giữ vững, quốc phòng được củng cố”.

3. Cải tạo quan hệ sản xuất theo chủ nghĩa xã hội, bước đầu phát triển kinh tế – văn hoá (1958 – 1960).

a) Cải tạo quan hệ sản xuất

Tuy đạt được một số thành tựu như đã trình bình ở trên, nhưng nền kinh tế miền Bắc căn bản vẫn là một nền nông nghiệp  phân tán, lạc hậu, lao động thủ công với năng suất thấp. Các thành phần kinh tế dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất còn phổ biến, trong đó kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, tiểu thương chiếm phần rất lớn. Thành phần kinh tế công – thương nghiệp tư bản tư doanh mới được cải tạo bước đầu.

Trong tình hình đó, Hội nghị lần thứ 14 BCHTW Đảng họp (11/1958), chủ trương bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hoá trong 3 năm (1958 – 1960) và cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh, trong đó trọng tâm trước mắt là cải tạo thành phần kinh tế cá thể của nông dân. Tháng 12/1958, tại kì họp thứ 9 Quốc hội khoá I đã thông qua Kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế – văn hoá (1958 – 1960) bao gồm những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

– Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp làm khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lương thực, đồng thời rất chú trọng sản xuất công nghiệp, hết sức tăng thêm các TLSX và giải quyết phần lớn hàng tiêu dùng.

– Cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp tư bản tư doanh theo hướng xã hội chủ nghĩa, khâu chính là hợp tác hoá nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh.

– Trên cơ sở phát triển sản xuất, nâng cao thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, nhất là đời sống của nhân dân lao động; và tăng cường củng cố quốc phòng.

* Cải tạo XHCN trong nông nghiệp:

Cải tạo theo định hướng XHCN trong nông nghiệp tức là phải thực hiện cải tạo QHSX kết hợp với cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động và giáo dục tư tưởng XHCN cho nông dân, nhằm đưa giai cấp nông dân từ chỗ làm ăn riêng lẻ đi dần vào con đường làm ăn tập thể XHCN. Đây là khâu chính trong toàn bộ sự nghiệp cải tạo XHCN ở miền Bắc.

Cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp được tiến hành qua 3 bước, từ thấp đến cao là: “Tổ đổi công có mầm mống XHCN, hợp tác hoá bậc thấp nửa XHCN và hợp tác hoá bậc cao hoàn toàn XHCN”; từng bước làm cho nông dân quen dần với lối làm ăn tập thể và phù hợp với trình độ quản lí của cán bộ HTX.

Để đạt được mục tiêu trên, trong qúa trình vận động hợp tác hoá, một mặt phải đi đúng đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn; mặt khác phải đảm bảo tuân thủ 3 nguyên tắc: Tự nguyện, cùng có lợiquản lí dân chủ.

Tự nguyện là phải để nông dân thấy được tính hơn hẳn của HTX đối với sản xuất cá thể mà tự nguyện, tự giác tham gia, nhất thiết không được cưỡng ép, mệnh lệnh dưới bất cứ hình thức nào.

Cùng có lợi là đối với những TLSX của xã viên đưa vào HTX cũng như khi sắp xếp công việc, bình công chấm điểm, chia hoa lợi,… đều phải giải quyết một cách hợp lí trong mối quan hệ giữa lợi ích chung của HTX với lợi ích riêng của từng xã viên nhằm lợi cho đoàn kết, lợi cho sản xuất.

Quản lí dân chủ là quản lí 3 mặt: lao động sản xuất, tài vụ cũng như các việc khác của HTX đều phải được bàn bạc một cách dân chủ và do tập thể xã viên quyết định, không được độc đoán, mệnh lệnh,…

Để thực hiện có kết quả cuộc vận động hợp tác hoá, một mặt Nhà nước mở các lớp cán bộ HTX để xây dựng và phát triển phong trào; tổ chức cho nông dân học tập chính sách hợp tác hoá nông nghiệp, nhận thức được ý nghĩa của con đường làm ăn mới; mặt khác, Nhà nước đã đầu tư vào nông nghiệp 180 triệu đồng bạc, cho nông dân vay 138 triệu đồng, cung cấp cho nông dân 30 vạn tấn phân hoá học, 6 vạn trâu bò, 4 triệu nông cụ các loại, xây dựng 19 công trình thuỷ lợi bảo đảm nước tưới cho 153 vạn ha ruộng đất.

Kết quả, sau 3 năm tiến hành thực hiện hợp tác hoá nông nghiệp, đến cuối năm 1960, trên toàn miền Bắc đã có 40.000 HTX nông nghiệp, bao gồm 85,8% hộ nông dân với 68,1% diện tích ruộng đất, trong đó có gần 12% số hộ tham gia HTX bậc cao.

Tại miền núi, do có những đặc điểm riêng, Đảng và Nhà nước chủ trương cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp, phát triển sản xuất kết hợp với việc hoàn thành cải cách dân chủ. Cuộc vận động đã diễn ra trong 2.000 xã với 3 triệu dân.Tính đến tháng 6/1961, toàn miền núi có 357.000 hộ nông dân vào HTX, chiếm 75,64% tổng số hộ nông dân.

=> Cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không chỉ mở đường cho LLSX phát triển, mà còn đảm bảo những điều kiện vật chất, tinh thần, chính trị cho bộ phận tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Thắng lợi của công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp góp phần tạo điều kiện cho việc cải tạo các thành phần kinh tế khác theo hướng XHCN. Chỉ số phát triển tổng sản lượng nông nghiệp: lấy năm 1957 là 100, thì năm 1958 là 116,9, năm 1959 là 124,5 và năm 1960 là 113,7. Nhiệm vụ hợp tác hoá nông nghiệp được Đảng và Chính phủ tổng kết là về cơ bản đã hoàn thành. Nhưng xét theo phương châm “vững chắc” mà Chính phủ đề ra thì chưa đảm bảo, vì phong trào tiến quá nhanh, chất lượng HTX yếu kém; đặc biệt 3 nguyên tắc “tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi” đều bị vi phạm. Như vậy, tuy Nhà nước chăm lo dân chủ hoá, pháp chế hoá bộ máy và cơ quan vận hành, nhưng ở đây lại chưa được quán triệt và thực thi đầy đủ. Xét chỉ tiêu kế hoạch nông nghiệp có tăng nhưng xét về hợp tác hoá, ngay từ đầu năm 1960 đã có chiều hướng giảm sút.

* Cải tạo XHCN đối với thủ công nghiệp, thương nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh:

Sau khi được khôi phục, ngành thủ công nghiệp đã có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đảng và Nhà nước chủ trương cải tạo thợ thủ công thông qua các hình thức tổ hợp tác, HTX cung tiêu sản xuất và HTX sản xuất thủ công nghiệp. Đến cuối năm 1960, miền Bắc có 87,9% số thợ thủ công tham gia vào các hình thức sản xuất tập thể.

Đối với thương nghiệp nhỏ, Nhà nước chủ trương dùng các hình thức hợp tác (như tổ hợp tác mua, bán; tổ hợp tác vừa mua bán, vừa sản xuất…) để cải tạo và chuyển dần một bộ phận sang cơ sở sản xuất tập thể. Cuối năm 1960, hơn 105.000 người buôn bán nhỏ (chiếm 45%) tham gia các hình thức hợp tác, gần 50.000 người buôn bán nhỏ chuyển sang sản xuất, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp.

Đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, Nhà nước chủ trương cải tạo theo định hướng XHCN bằng phương pháp hoà bình vì giai cấp tư sản miền Bắc nhỏ yếu, đã từng là đồng minh của giai cấp công nhân trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Hơn thế nữa, công cuộc cải tạo diễn trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: Nhà nước dân chủ nhân dân được củng cố vững mạnh, thành phần kinh tế quốc doanh nắm vai trò lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân; từ ngày hoà bình lập lại, nói chung giai cấp tư sản vẫn tán thành cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc, có khả năng tiếp thu cải tạo XHCN. Mặt khác, cải tạo bằng phương pháp hoà bình là nhằm đoàn kết lực lượng cả nước trong cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.

Với chủ trương cải tạo bằng phương pháp hoà bình, Nhà nước không tịch thu TLSX của giai cấp TS dân tộc mà dùng chính sách chuộc lại hoặc dưới hình thức công tư hợp doanh; về chính trị, TS dân tộc vẫn là một thành phần của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đến cuối năm 1960, miền Bắc có 783 hộ TS công nghiệp (100%), 826 hộ TS thương nghiệp (97,1%) và 319 hộ TS vận tải cơ giới (99%)…được cải tạo. Hàng vạn công nhân được giải phóng khỏi ách bóc lột của giai cấp tư sản. Sản xuất phát triển: chỉ số phát triển giá trị tổng sản lượng công, nông nghiệp lấy năm 1957 là 100, thì năm 1958 là 117, năm 1959 là 133, năm 1960 là 135,8. Đời sống nhân dân được cải thiện một bước.

Như vậy, công cuộc cải tạo kinh tế đã diễn ra một cách tích cực, khẩn trương, theo đúng chủ trương mà Đảng và Nhà nước đề ra và đạt được yêu cầu. Nhiệm vụ phát triển và cải tạo kinh tế về cơ bản hoàn thành, đưa miền Bắc từ một nền kinh tế nhiều thành phần lên một nền kinh tế chủ yếu chỉ có hai thành phần là quốc doanh và tập thể. Thắng lợi này có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn đối với việc củng cố chế độ XHCN miền Bắc và góp phần vào sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà.

Nhưng xét về hiệu quả trong cả tiến trình cách mạng thì cả hai nhiệm vụ phát triển và cải tạo, tuy tiến nhanh, tiến mạnh, nhưng không vững chắc. Nguyên nhân là do sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý chí. Chủ trương “đưa việc xây dựng QHSX tiên tiến lên trước để kéo LLSX lên theo” là không phù hợp với quy luật khách quan. Sai lầm còn do không nắm chắc các quy luật kinh tế của thời kì quá độ, nên đã đồng nhất cải tạo với xoá bỏ tư hữu, xoá bỏ các thành phần kinh tế; còn thể hiện tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí, vi phạm nguyên tắc tự nguyện…

b) Bước đầu phát triển kinh tế – văn hoá:

Song song với cải tạo XHCN đối với thủ công nghiệp, thương nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh, trong thời kì 1958 – 1960, công thương nghiệp quốc doanh có những bước phát triển nhanh chóng. Nhà nước đã tập trung phần lớn vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản trong công nghiệp. So với thời kì 1955 – 1957, tổng mức đầu tư vào công nghiệp trong kế hoạch 3 năm 1958 – 1960 tăng lên 3 lần, chiếm 46,52% tổng số vốn đầu tư cho các ngành kinh tế, văn hoá.

Với số vốn đầu tư trên, Nhà nước đã xây dựng nhiều công trình lớn nhỏ. Từ chỗ có 97 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh (năm 1957), đến năm 1960 đã có tới 172 xí nghiệp do TW quản lítrên 500 xí nghiệp cơ sở do địa phương quản lí. Một hệ thống các nhà máy, xí nghiệp thuộc các ngành điện lực, khai khoáng, luyện kim, chế tạo nông cụ, chế tạo cơ khí, hoá chất, phân bón, vật liệu xây dựng…được hình thành. Khu gang thép Thái Nguyên, cơ sở luyện kim đầu tiên của Việt Nam được xây dựng trong thời kì này. Nhà máy điện Thái Nguyên, Việt Trì, Uông Bí, nhà máy đóng tàu thủy,…bắt đầu được xây dựng.

Ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển và đạt được kết quả lớn. Năm 1959, tổng số hàng tiêu dùng sản xuất trong nước tăng lên 283,7% so với năm 1955. Năm 1960, sức mua của nhân dân tăng lên nhiều, nhưng số lượng hàng hoá nhập chỉ bằng 6% giá trị sản lượng tiêu dùng trong nước. Trong năm này, ngành công nghiệp nhẹ đảm bảo cung cấp được hơn 90% hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trong đó giá trị sản lượng quốc doanh chiếm tỷ lệ cao (1957 là 26,9%; 1960 là 54,4%).

Ngành thương nghiệp XHCN cũng phát triển mạnh mẽ. Từ một sở mậu dịch quốc doanh trong kháng chiến, đến năm 1959 mậu dịch quốc doanh đã có 12 công ti chuyên nghiệp với 1.400 cửa hàng.

Sự phát triển của thương nghiệp XHCN, sự lớn mạnh của thương nghiệp quốc doanh đã có tác dụng giữ vững vai trò chủ đạo và ổn định thị trường, góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động.

Trên mặt trận giáo dục, vấn đề cấp bách là đẩy mạnh công tác thanh toán nạn mù chữ. Cuối năm 1960, về căn bản đã xoá xong nạn mù chữ ở miền xuôi cho những người dưới 50 tuổi. Công tác bổ túc văn hoá cũng phát triển mạnh mẽ, tiến tới phổ cập cấp I cho toàn dân, trước hết là trong cán bộ cơ sở và trong thanh niên.

Thời kì 1958 – 1960 đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng về chất lượng và số lượng của ngành giáo dục phổ thông. Đến năm 1960, số học sinh phổ thông lên tới 1.815.000 người, tăng 1,5 lần so với 1955 và tăng 80% so với năm 1957. Ở các tỉnh miền núi, trường phổ thông các cấp cũng phát triển. Các dân tộc Thái, Tày, Nùng, H’Mông…được Nhà nước giúp đỡ đã cải tiến và xây dựng chữ viết của mình.

Trước yêu cầu đào tạo cán bộ KHKT, trong thời gian 1958 – 1960, Chính phủ quyết định mở thêm nhiều trường đại học và trung học chuyên nghiệp, thu hút con em nhân dân lao động vào học. Kết quả là đến năm 1960, toàn miền Bắc có 9 trường đại học với 11.070 sinh viên (gấp 2 lần so với năm 1957); 50 trường trung học chuyên nghiệp với 26.330 học sinh (gấp 2,3 lần so với năm 1957). Bên cạnh việc đào tạo trong nước, Chính phủ còn đưa ngày càng nhiều học sinh đi học ở các nước XHCN anh em.

Về văn hoá, nổi bật là sự phát triển của các ngành văn học, nghệ thuật, điện ảnh, xuất bản, báo chí, thông tin. Những cơ sở nghiên cứu di sản văn hoá, nghệ thuật dân tộc được xây dựng. Công tác đào tạo cán bộ nghệ thuật, cũng như việc bảo tồn các di tích lịch sử và những công trình kiến trúc được chú trọng. Nhà nước cho xây dựng xưởng phim truyện Việt Nam và phát triển các đội chiếu bóng lưu động.

Công tác y tế có nhiều tiến bộ, đạt được những thành tựu mới trong lĩnh vực nghiên cứu y học chữa bệnh mắt; phòng chống và chữa bệnh lao. Cơ sở y tế (bao gồm bệnh viện, bệnh xá, trạm y tế) được xây dựng. Việc kết hợp giữa Đông và Tây y đã tăng cường khả năng chữa bệnh cho nhân dân.

4. Củng cố miền Bắc, cổ vũ miền Nam (1954 – 1960).

Những thắng lợi giành được trong thời kì khôi phục kinh tế không tách rời vai trò của Nhà nước Dân chủ Nhân dân, đồng thời có tác dụng củng cố nền tảng của Nhà nước.

Từ khi hoà bình lập lại, Nhà nước dân chủ nhân dân ở miền Bắc đã chuyển sang làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Đó là Nhà nước đại biểu cho quyền lợi của nhân dân lao động. Vì vậy, tăng cường Nhà nước chuyên chính vô sản cũng tức là phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nông, tăng cường mối liên hệ giữa Nhà nước và nhân dân.

Từ ngày 5 đến 15/9/1955, Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc họp tại Hà Nội đã quyết định mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Ngày 10/9/1955, Đại hội thông qua việc thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kế tục sự nghiệp đoàn kết toàn dân của Mặt trận Liên Việt trước đây. Đại hội đã bầu ra Uỷ ban TW Mặt trận do Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch và thông qua Cương lĩnh Mặt trận, gồm 10 điểm:

1)     Hoàn thành độc lập dân tộc;

2)     Thực hiện thống nhất nước nhà;

3)     Xây dựng chế độ dân chủ;

4)     Phát triển kinh tế, nâng cao sản xuất;

5)     Cải cách ruộng đất;

6)     Thi hành chính sách xã hội hợp lý;

7)     Phát triển văn hoá, giáo dục;

8)     Củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc;

9)     Thi hành chính sách ngoại giao hoà bình, độc lập;

10) Đoàn kết nhân dân toàn quốc.

Cương lĩnh của Mặt trận thể hiện nguyện vọng, ý chí của mọi người Việt Nam yêu nước là đại đoàn kết để hoàn thành sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh. Phát biểu tại phiên bế mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ của lực lượng đấu tranh của nhân dân ta. Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh, cây mới tốt. Muốn thực hiện Cương lĩnh của Mặt trận thì chúng ta phải ra sức củng cố miền Bắc về mọi mặt, phải làm cho miền Bắc vững mạnh và tiến lên mãi, chứ không phải là hạ thấp yêu cầu củng cố miền Bắc”.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành lập đánh dấu một bước phát triển về đoàn kết dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới, nhằm tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình trong cả nước để đấu tranh chống đế quốc Mĩ, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tiến tới xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Tháng 3/1957, BCHTW Đảng họp Hội nghị lần thứ 12. Hội nghị thảo luận và ra Nghị quyết về 2 vấn đề: Kế hoạch Nhà nước năm 1957 và Xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng.

Về kế hoạch Nhà nước năm 1957, Hội nghị đề ra mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế (ngang với mức sản xuất năm 1939), tạo ra những điều kiện tốt để có cơ sở chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn phát triển kinh tế.

Về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, Hội nghị đề ra phương châm xây dựng, tăng cường lực lượng quốc phòng: “Tích cực xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước đến chính quy hoá và hiện đại hoá” và “không những có một lực lượng thường trực mạnh mà lại phải có một lực lượng hậu bị mạnh”.

Ngày 14/9/1957,  Dự thảo Luật Công đoàn được Quốc hội (khoá I) họp kì thứ 7 thông qua, nhằm phát huy vai trò của giai cấp công nhân trong quản lí kinh tế, quản lí Nhà nước.

Cuối năm 1957, cuộc bầu cử Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Hành chính các cấp địa phương được tiến hành, đã củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, chuyển sang thực hiện chức năng chuyên chính vô sản của giai cấp công nhân.

Sau thời kì khôi phục kinh tế, cải tạo QHSX và phát triển kinh tế và văn hoá, mọi mặt đời sống xã hội miền Bắc đã và đang có những chuyển biến lớn lao. Tình hình mới đòi hỏi phải có một Hiến pháp mới thay thế cho Hiến pháp 1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Hiến pháp 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta, thích hợp với tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong thời kì đó. Nó đã hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng so với tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó không thích hợp nữa. Vì vậy mà chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp ấy”.

Tại kì họp thứ 6 (23/11/1957), theo đề nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội khoá I ra Nghị quyết sửa đổi Hiến pháp và bầu ra Ban sửa đổi Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban.

Sau gần 2 năm hoạt động, Dự thảo Hiến pháp đã được đưa ra trưng cầu ý kiến rộng rãi trong toàn dân. Ngày 31/12/1959, Quốc hội khoá I chính thức thông qua bản Hiến pháp mới. Ngày 1/1/1960, Hiến pháp được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà công bố.

Hiến pháp 1959 khẳng định chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân…”. Mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công dân (quyền bình đẳng nam nữ, bình đẳng dân tộc, bình đẳng trước pháp luật, các quyền tự do dân chủ, như tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, quyền làm việc, nghỉ ngơi, quyền ứng cử, bầu cử…) được quy định rõ ràng trong Hiến pháp và nhấn mạnh: “Nhà nước đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó”.

Hiến pháp năm 1959 khẳng định ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta là xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, nhằm xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh. Hiến pháp 1959 đặt cơ sở cho việc xây dựng pháp chế XHCN ở nước ta.

Về quốc phòng, để trở thành hậu phương vững mạnh trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, miền Bắc phải được xây dựng không chỉ mạnh về chính trị, kinh tế mà cả về quân sự. Đảng và Chính phủ quán triệt quan điểm quân đội nhân dân là trụ cột chủ yếu nhất, chắc chắn nhất để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình. Nghị quyết Bộ Chính trị (9/1954) chỉ rõ: “Bất kì tư tưởng và hành động nào cho là đình chiến rồi thì mọi việc đều tốt đẹp, rồi bỏ rơi việc chuẩn bị chiến đấu, để cho tinh thần uể oải, lơ là việc xây dựng lực lượng vũ trang đều là sai lầm nguy hiểm. Cho nên, tăng cường Quân đội nhân dân là nhiệm vụ rất quan trọng của Đảng, Chính phủ và toàn thể nhân dân ta. Cần phải xây dựng Quân đội nhân dân thành một quân đội cách mạng, chính quy, tương đối hiện đại”.

Trong những năm kháng chiến, bộ đội ta phân tán chiến đấu và công tác trên nhiều chiến trường nên biên chế tổ chức, trang bị, điều lệnh của bộ đội thiếu thống nhất. Vì vậy, trong khi cùng toàn Đảng, toàn dân ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước ổn định tình hình, chống địch cưỡng ép di cư, truy quét phỉ dọc miền biên giới, giúp nhân dân các địa phương tháo gỡ bom mìn, phục hồi sản xuất, khắc phục bão lũ, hạn hán; đồng thời quân đội gấp rút chấn chỉnh bước đầu về mọi mặt. Cuối năm 1954, các đơn vị trong toàn quân bước vào đợt huấn luyện quân sự đầu tiên trong thời bình với chương trình và nội dung huấn luyện thống nhất, đặc biệt là kỹ thuật, chiến thuật cấp phân đội. Sau 3 năm huấn luyện cơ bản, bản lĩnh chiến đấu, trình độ kỹ thuật, chiến thuật cá nhân được nâng lên, tạo điều kiện cho bộ đội bước vào huấn luyện tác chiến hiệp đồng, vận dụng thuần thục các hình thức chiến thuật trong những năm tiếp theo.

Năm 1957, Hội nghị lần thứ 12 (mở rộng) BCHTW Đảng (khoá II) Quyết nghị các vấn đề xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong giai đoạn mới. Nhiệm vụ quân đội được Hội nghị xác định: “Bảo vệ công cuộc củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ yếu là đế quốc Mĩ và tay sai”. Hội nghị quyết định các biện pháp lớn để tăng cường khả năng phòng thủ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội. Bộ Tổng Tham mưu soạn thảo Kế hoạch xây dựng Quân đội 5 năm (1955 – 1959). Mục tiêu xây dựng trong 5 năm, Quân đội phải: “Thực hiện và hoàn thành thắng lợi kế hoạch xây dựng Quân đội nhân dân, làm cho quân đội trở thành một lục quân cách mạng chính quy và tương đối hiện đại, đồng thời đặt cơ sở đầu tiên cho các quân chủng và binh chủng khác”. Hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng là nhiệm vụ của toàn Đảng và toàn dân, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, động viên toàn quân tích cực học tập và công tác, phát huy khả năng của nhân dân tham gia vào việc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng.

Tháng 3/1958, Tổng Quân uỷ quyết định điều chỉnh một số nội dung trong kế hoạch xây dựng quân đội. Theo đó, thời gian thực hiện kế hoạch tăng thêm 1 năm (đến năm 1960) cho phù hợp với thời gian thực tế kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá. Những nội dung được điều chỉnh bao gồm:

1)     Giảm bớt tổng quân số đi đôi với việc nâng cao chất lượng toàn diện của bộ đội tập trung, cải tiến trang bị, vũ khí, các đơn vị, binh chủng, thực hiện các chế độ chính quy.

2)     Tận dụng khả năng xây dựng kinh tế của quân đội.

3)     Xúc tiến việc đào tạo cán bộ, xây dựng các nhà trường quân sự.

4)     Đẩy mạnh công tác huấn luyện và nghiên cứu khoa học quân sự.

Ngoài ra, Tổng Quân uỷ còn xác định rõ những biện pháp nhằm tăng cường khả năng phòng thủ miền Bắc, chuẩn bị mọi mặt đối phó nếu chiến tranh xảy ra, xây dựng Tây Bắc và miền Tây khu IV thành căn cứ địa vững chắc.

Thực hiện nội dung trên đây, 78.100 cán bộ, chiến sĩ rời quân ngũ, chuyển về địa phương hoặc sang công tác ở các cơ quan dân sự; 143.000 cán bộ, chiến sĩ khác chuyển sang các đơn vị xây dựng kinh tế, lập các nông trường ở Điện Biên, Mộc Châu, Yên Bái, Phú Thọ, Sơn Tây, Hoà Bình, miền Tây Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, tham gia xây dựng khu công nghiệp Thái Nguyên, Việt Trì…

Đi đôi với việc giảm tổng quân số, toàn quân tiến hành sắp xếp lại lực lượng. Tháng 3/1958, Bộ Quốc phòng quyết định thống nhất tổ chức, biên chế, trang bị của lục quân và các đơn vị của không quân, hải quân. Ngày 21/3/1958, Bộ Quốc phòng ra Nghị định thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không trên cơ sở tách Sư đoàn Pháo Cao xạ 367 khỏi Bộ Tư lệnh Pháo binh… Tháng 1/1959, Cục Không quân và Cục Hải quân được thành lập với nhiệm vụ giúp Bộ Quốc phòng tổ chức, chỉ đạo lực lượng không quân, hải quân; xây dựng, quản lí các sân bay và hải cảng; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên kĩ thuật và lực lượng hậu bị của 2 quân chủng này.

Đầu năm 1958, được sự chấp thuận của Hội đồng Chính phủ, Bộ Quốc phòng chỉ đạo thí điểm thực hiện nghĩa vụ quân sự ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Nghệ An, Hải Dương, Sơn La,… Rút kinh nghiệm đợt thí điểm gọi thanh niên nhập ngũ theo nghĩa vụ quân sự, ngày 31/12/1959, Quốc hội chính thức thông qua Luật Nghĩa vụ Quân sự; đến tháng 4/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh ban hành. Từ chế độ tòng quân tình nguyện chuyển sang chế độ nghĩa vụ quân sự là bước tiến mới của sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Chế độ nghĩa vụ quân sự cho phép tăng cường lực lượng hậu bị, giảm bớt số quân thường trực; tiết kiệm tài, lực cho công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, xây dựng tiềm lực quân sự. Ngoài ra, chế độ nghĩa vụ quân sự cho phép phổ cập tri thức quân sự, nâng cao ý thức quốc phòng trong nhân dân; động viên được sự tham gia, đóng góp của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng quân đội.

Để tích cực hỗ trợ, chi viện cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, cuối tháng 5/1959, Quân uỷ TW ra Nghị quyết chính thức thành lập Đoàn 559 với nhiệm vụ là xây dựng một tuyến đường bộ đầu tiên nối liền Bắc – Nam, tổ chức đưa người và vũ khí tiếp tế cho cách mạng miền Nam, trước mắt là cho Liên khu V. Đoàn 559 (còn có tên gọi là bộ đội Trường Sơn) lấy vận tải cơ giới làm chủ yếu, vận tải thô sơ làm bổ trợ, đã phục vụ đắc lực cho việc chi viện trên nhiều hướng chiến trường và nhiều chiến dịch lớn của các LLVT, đưa vào và ra hàng chục vạn ngàn người, chuyển hàng triệu tấn hàng dưới bom đạn ác liệt và những cuộc tấn công trên mặt đất của quân thù.

Ngoài Đoàn 559, Quân uỷ TW thấy cần mở một đường vận chuyển trên biển để tiếp tế vũ khí, đạn dược, trang bị cho miền Nam. Tháng 7/1959, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn 759, lúc đầu chỉ có một nhóm cán bộ trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu làm nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề này.

Về ngoại giao, trước tình hình thế giới đang biến đổi ngày càng phức tạp, Đảng và Nhà nước ta, trên cơ sở giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, đã tiến hành chính sách ngoại giao hoà bình và hữu nghị với các dân tộc, chăm lo củng cố và phát triển hợp tác tương trợ với các nước XHCN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Lào và Campuchia, Đảng và Chính phủ nhận rõ tầm quan trọng đặc biệt của liên minh chiến đấu giữa 3 nước, coi đây là nhân tố đảm bảo sự thắng lợi và cũng là quy luật phát triển cách mạng mỗi nước.

Đối với các nước Á, Phi, Mĩ La Tinh, chính sách của ta là ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của họ và giao hảo với bất cứ nước nào cùng ta công nhận 5 nguyên tắc chung sống hoà bình.

Ngày 20/3/1955, tại Kì họp lần thứ 4 Quốc hội khoá I, Chính phủ VNDCCH tuyên bố: “Nền tảng vững chắc của chính sách ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là tăng cường quan hệ mật thiết với các nước bạn, với Liên Xô và Trung Quốc cùng các nước dân chủ nhân dân khác. Chúng ta không ngừng củng cố và phát triển tinh thần đoàn kết, hữu nghị với các nước bạn, cùng nhau gìn giữ và củng cố hoà bình”.

Thực hiện chính sách đối ngoại đó, Đảng và Chính phủ đã cử nhiều đoàn đại biểu thăm hữu nghị các nước XHCN anh em. Đặc biệt, tháng 6/1955 và tháng 7/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ta đi thăm chính thức Liên Xô và các nước XHCN khác. Ngày 15/4/1955, Đoàn đại biểu Chính phủ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang Băngđung (Inđônêxia) dự Hội nghị Á – Phi lần thứ nhất. Trên diễn đàn Hội nghị, đại biểu nhiều nước đã đánh giá cao những cống hiến của nhân dân Việt Nam cho sự nghiệp đấu tranh chống ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.

Tháng 2/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Ấn Độ, Mianma; và tháng 9/1959 thăm Inđônêxia. Trong năm 1958, Đoàn đại biểu Quốc hội do đồng chí Tôn Đức Thắng dẫn đầu đi thăm một số nước XHCN ở châu Âu và châu Á…

Những hoạt động ngoại giao trong giai đoạn này của Đảng và Nhà nước ta đã thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, sự hợp tác giữa nước ta với chính phủ và nhân dân nhiều nước trên khắp thế giới, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi đối với sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Ngày 20/7/1959, Hội đồng Đoàn kết nhân dân Á – Phi họp ở Cairô đã kêu gọi các Uỷ ban Đoàn kết Á – Phi của các nước và toàn thể nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới lấy ngày 20/7/1959 làm “Ngày Việt Nam”, đòi Mĩ phải rút khỏi miền Nam, đòi phải phá bỏ những căn cứ quân sự của chúng ở miền Nam Việt Nam, đòi xúc tiến mở cuộc thương lượng giữa 2 miền Bắc và Nam Việt Nam để đi tới thực hiện tuyển cử tự do trong cả nước, đòi chính quyền miền Nam phải chấm dứt ngay mọi hành vi đàn áp, khủng bố nhân dân, phải huỷ bỏ tất cả những luật lệ phát xít,…

Ngày 20/7/1959, lần đầu tiên “Ngày Việt Nam” được các tổ chức của trên 20 nước tổ chức trọng thể. Từ đó về sau, “Ngày Việt Nam” (20/7) hàng năm được nhân dân nhiều nước trên thế giới tổ chức để ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mĩ xâm lược.

“Ngày Việt Nam” (20/7) là biểu hiện của tình đoàn kết thắm thiết và sự ủng hộ nhiệt liệt của nhân dân Á – Phi đối với nhân dân ta đang đấu tranh để thực hiện thống nhất đất nước. Nó càng chứng tỏ cuộc đấu tranh cho độc lập, thống nhất của nhân dân Việt Nam gắn liền với phong trào độc lập dân tộc và bảo vệ hoà bình của nhân dân các nước Á – Phi và thế giới; đồng thời, nó càng làm cho nhân dân ta tin tưởng rằng, sự nghiệp cách mạng vẻ vang của mình nhất định sẽ thắng lợi.

III. Miền Nam đấu tranh chống chế độ Mỹ – Diệm, gìn giữ và xây dựng lực lượng tiến tới “Đồng khởi” (1954 – 1960) (4 tiết).

1. Chế độ Mĩ – Diệm ở miền Nam Việt Nam

Sẵn có âm mưu can thiệp vào Việt Nam từ trước, nên chỉ 1 ngày sau khi Hiệp định Giơnevơ (1954) được kí kết, Tổng thống Mĩ Aixenhao đã tuyên bố: “Chính phủ Mĩ không tham gia kí thì không bị Hiệp định ràng buộc”.

Ngày 8/8/1954, Hội đồng An ninh Quốc gia Mĩ đưa ra 4 chính sách lớn:

1) Mĩ trực tiếp viện trợ cho Nguỵ quyền Sài Gòn. Mĩ chỉ dành cho Pháp 100 triệu đô la trong tổng số 400 triệu đô la viện trợ.

2) Mĩ trực tiếp chỉ huy và huấn luyện quân đội Nguỵ.

3) Pháp phải rút hết quân khỏi miền Nam.

4) Loại bỏ Bảo Đại và những ảnh hưởng của Pháp.

Tiếp theo, tháng 11/1954, Mĩ cử Tướng Côlin (Lawton Collins), Quyền Tham mưu trưởng Lục quân Mĩ và đại diện Mĩ ở Uỷ ban Quân sự khối NATO, sang miền Nam Việt Nam làm đại sứ. Ngày 17/11/1954, Côlin đến Sài Gòn mang theo một kế hoạch chiến lược gồm 6 biện pháp khẩn cấp:

1) Chỉ ủng hộ Ngô Đình Diệm và việnt trợ thẳng cho Diệm, không qua Pháp.

2) Thành lập Quân đội “Quốc gia” cho Diệm (15 vạn) do Mĩ huấn luyện và cung cấp vũ khí.

3) Lập “Quốc hội”, thực hiện “độc lập”.

4) Tiến hành “Cải cách điền địa”, đẩy mạnh chính sách di cư từ miền Bắc vào miền Nam và thực hiện việc định cư cho số người miền Bắc di cư vào Nam.

5) Thay đổi các thứ thuế, dành ưu tiên cho hàng hoá và tư bản Mĩ vào miền Nam.

6) Đào tạo cán bộ hành chánh cho Diệm.

Thực hiện kế hoạch 6 điểm trên đây thực chất là biến miền Nam Việt Nam đang trong vòng kiểm soát của Pháp trở thành một miền Nam Việt Nam lệ thuộc hoàn toàn vào Mĩ trên tất cả các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá…

a) Về chính trị:

Được Mĩ viện trợ, giúp sức điều hành, nhưng những tháng cuối năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn bị uy hiếp từ nhiều phía.

Các thế lực thân Pháp trong hàng ngũ sĩ quan quân đội Liên hiệp Pháp tập hợp quanh tướng Nguyễn Văn Hinh, Tham mưu trưởng Nguỵ quân, ra sức chống Diệm. Tháng 10 & 11/1954, Nguyễn Văn Hinh đã 3 lần âm mưu gạt Diệm, Mĩ phải ép Pháp thông qua Bảo Đại đưa Hinh sang Pháp.

Các giáo phái có LLVT riêng do Pháp xây dựng để chống lại cách mạng.. Mỗi giáo phái cát cứ ở một địa phương cả về chính trị và kinh tế. Phái Bình Xuyên có khoảng 4.000 quân (kể cả lực lượng cảnh sát, công an ở Sài Gòn) hoạt động ở miền Đông do Bảy Viễn làm thủ lĩnh. Lực lượng Hoà Hảo có khoảng 25.000 quân, hoạt động ở một số tỉnh miền Trung và miền Tây Nam Bộ, chia thành 4 nhóm do Năm Lửa, Hai Ngoán, Ba Cụt và Nguyễn Giác Ngộ nắm từng nhóm. Phái Cao Đài có khoảng 6.000 quân, hoạt động chủ yếu ở Tây Ninh và một số tỉnh Nam Bộ, đứng đầu là Giáo chủ Phạm Công Tắc. Tất cả các lực lượng này được Pháp ủng hộ, tìm cách móc nối với quân Nguỵ thân Pháp để lật đổ Diệm.

Mặt khác, lực lượng cách mạng đang tồn tại ở khắp các địa phương trên toàn miền Nam, nhất là ở các tỉnh vùng tự do Khu V (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên), các khu căn cứ kháng chiến U Minh, Đồng Tháp Mười, chiến khu Đ, chiến khu Dương Minh Châu, Tây Nguyên. Đây là lực lượng chủ yếu đe doạ đến sự sống còn của chính quyền Mĩ – Diệm ở miền Nam.

Để đối phó với tình hình trên, ngay khi đến Nam Việt Nam, Côlin đã đôn đốc chính quyền Ngô Đình Diệm khẩn trương thực hiện kế hoạch của Mĩ. Sử dụng sức mạnh của chủ nợ đối với con nợ (từ 1950 – 1954, Mĩ viện trợ cho Pháp 2,6 tỷ đô la, biến Pháp thành con nợ của Mĩ), Mĩ buộc Pháp phải nhượng bộ nhanh chóng các yêu cầu của Mĩ, như rút Cao uỷ Pháp về nước, trao chủ quyền cho chính phủ Ngô Đình Diệm, để Mĩ viện trợ thẳng cho Diệm không qua Pháp, Mĩ trực tiếp huấn luyện và trang bị cho nguỵ quân.v.v.

Trước sức ép của Mĩ, ngày 2/12/1954, Pháp đã phải kí với Mĩ một Hiệp ước về việc rút quân Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam, và ngày 10/12, tướng Pháp Pôn-Êly (Paul Ely), Tổng Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương thay mặt cho Chính phủ Pháp kí với tướng Côlin thay mặt Chính phủ Mĩ một Hiệp ước cam kết cùng lo việc huấn luyện cho quân nguỵ. Nhưng trên thực tế, Êly chẳng có thực quyền, người chịu trách nhiệm thực hiện Hiệp ước là tướng Ô Đanien, Trưởng phái đoàn viện trợ Mĩ (MAAG).

Ngày 22/12/1954, Rátpho, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu liên quân Mĩ đến Sài Gòn hứa viện trợ thẳng cho Diệm 300 triệu đô la trong năm 1955. Ngày 13/1/1955, Ngô Đình Diệm gửi Công hàm cho tướng Côlin yêu cầu từ nay Hoa Kỳ “đảm trách hoàn toàn vấn đề tổ chức và huấn luyện quân đội Việt Nam”. Tiếp theo, ngày 12/2/1955, trong một cuộc họp báo, Ngô Đình Diệm tuyên bố “từ nay trở đi chỉ có tướng Mĩ Ô Đanien là người chịu trách nhiệm huấn luyện cho các lực lượng quân đội”.

Ngày 14/4/1956, Pháp gửi Công hàm cho 2 Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ (Liên Xô và Anh) thông báo cho biết quân Pháp sẽ rút khỏi Việt Nam và kể từ ngày 28/4/1956 Pháp không còn chịu trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ (1954) nữa. Cuối tháng 4/1956, đơn vị cuối cùng của quân đội thực dân Pháp đã rút khỏi miền Nam. Như vậy, đến đây Pháp đã trút bỏ trách nhiệm một bên phải thực hiện các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương.

Cuộc rút quân trên đây của Pháp đã mở đường cho chính quyền Ngô Đình Diệm thanh toán các thế lực thân Pháp ra khỏi bộ máy chính quyền các cấp, tiêu diệt các LLVT giáo phái thân Pháp, tiến tới thiết lập chế độ độc tài, phát xít, gia đình trị.

Để phát triển thế lực của mình, từ cuối năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm đẩy mạnh xây dựng các tổ chức chính trị phản động. Đảng Cần lao Nhân vị do Ngô Đình Nhu cầm đầu, có nhiệm vụ làm đội quân chủ lực cho chế độ. Lúc đầu, Ngô Đình Nhu chủ trương lấy tín đồ Thiên Chúa giáo làm nòng cốt. Tuy vậy, người các tôn giáo khác vẫn được kết nạp vào đảng. Từ cuối năm 1957, sau khi tạm thời vượt qua những khó khăn buổi đầu, chế độ “dường như” đã vững mạnh, Ngô Đình Nhu chủ trương phải có một đội quân thuần nhất, hoàn toàn trung kiên với chế độ để đối đầu với lực lượng cách mạng, Đảng Cần lao biến thành Đảng “Cần lao Thiên Chúa giáo”, lấy tôn giáo làm yếu tố ưu tiên và độc nhất cho mọi chính sách nhân sự, nên đảng viên hầu hết là tín đồ Thiên Chúa giáo. Người vào Đảng phải tuyên thệ “đem hết thể xác và linh hồn cho đến hơi thở cuối cùng để chiến đấu chống cộng sản vô thần, chống Phật giáo ma quỷ, chống các đảng phái quốc gia”. Kẻ có chân trong đảng Cần lao là thể hiện sự trung thành với chế độ, được chế độ tin tưởng và cất nhắc: “Cần lao là con đường duy nhất để đưa người Công giáo, và chỉ người Công giáo mà thôi, vào chính quyền”. Do vậy, bộ máy cai trị của chính quyền Ngô Đình Diệm thể hiện tính chất “giáo trị” một chiều hết sức cao độ. Hầu hết những chức vụ chủ chốt từ trung ương xuống tỉnh, quận đều nằm trong tay thiểu số Cần lao Thiên Chúa giáo.

Cũng vào cuối năm 1954, Diệm thành lập tổ chức “Phong trào cách mạng quốc gia” do Trần Chánh Thành, tay chân thân tín của Diệm, cầm đầu. Tổ chức này nêu 3 mục tiêu: chống Cộng (thực chất là chống nhân dân); đả Thực (thực chất là gạt Pháp để Mĩ độc chiếm miền Nam); bài Phong (thực chất là phế truất Bảo Đại khỏi ngôi Quốc trưởng để cho Diệm thâu tóm quyền lực).

Song song với việc xây dựng chính quyền TW, Mĩ – Diệm ra sức củng cố chính quyền xã, thôn (ấp) bằng cách bổ nhiệm những người thuộc phe cánh Diệm làm xã trưởng, ấp trưởng. Đi ngược lại truyền thống dân chủ vốn có của làng xã Việt Nam, Mĩ – Diệm bãi bỏ các Hội đồng dân cử, thay vào đó bằng chế độ “chỉ định”. Do “chế độ chỉ định”, nên bộ máy chính quyền thôn, xã ra sức bạo hành, ức hiếp lương dân. Chính những người trong bộ máy chính quyền Ngô Đình Diệm cũng phải thừa nhận rằng: “Một trong những khuyết điểm lớn nhất của Diệm trong năm 1956 là việc các viên chức làng xã được bầu cử đã bị chính quyền trung ương thay thế một cách độc đoán bằng những kẻ tay sai được chỉ định”.

Cùng với bộ máy cai trị từ trung ương xuống xã, thôn, Mĩ – Diệm lập các tổ chức quần chúng trá hình như “Thanh niên cộng hoà”, “Phụ nữ liên đới”, “Liên gia tương trợ”, “Nhân dân tự vệ đoàn”, “Ngũ liên gia bảo” để kìm kẹp nhân dân.

Song song với việc xây dựng bộ máy chính quyền bất hợp pháp ở miền Nam, ngay từ khi Hiệp định Giơnevơ kí chưa ráo mực, Mĩ – Diệm đã nhiều tuyên bố không thừa nhận Hiệp định này. Ngày 28/2/1955, Đài Sài Gòn lên tiếng: “Trong thực tế, không thể nào có cuộc Tổng tuyển cử năm 1956”. Ngày 6/7/1955, Phó Tổng thống Mĩ Ních-xơn nói: “Mĩ hoàn toàn ủng hộ chủ trương của chính phủ Diệm không tham gia tổng tuyển cử thống nhất đất nước”.

Mĩ khuyến khích, ngày 16/7/1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Không gạt bỏ nguyên tắc tuyển cử, coi như một phương tiện dân chủ cộng hoà thích đáng để thực hiện nền thống nhất”, nhưng mặt khác lại cho rằng: “Không có hiệp thương tổng tuyển cử, chúng ta không kí kết hiệp định Giơnevơ, bất cứ phương diện nào chúng ta cũng không bị ràng buộc bởi hiệp định đó”. Ngày 20/7/1955, Diệm còn cho tay chân tập trung bọn lưu manh bày trò biểu tình chống hiệp định Giơnevơ và đập phá trụ sở Uỷ ban Quốc tế ở Sài Gòn.

Để hợp pháp hoá chế độ Sài Gòn, ngày 23/10/1955, Mĩ – Diệm bày trò “trưng cầu dân ý”, phế truất Bảo Đại, suy tôn Ngô Đình Diệm làm Tổng thống. Tiếp theo, ngày 4/3/1956, Diệm tổ chức bầu cử Quốc hội riêng rẽ. Đến ngày 26/10/1956 thì ban hành Hiến pháp, lập nền “Cộng hoà Đệ nhất”.

b) Về quân sự:

Mĩ – Diệm dồn sức lập một đội quân làm công cụ để ổn định tình hình. Trong 6 tháng đầu năm 1955, Mĩ đã kí một loạt Hiệp định quân sự với chính quyền Ngô Đình Diệm.

Dựa vào các Hiệp định này, Mĩ không ngừng đưa nhân viên, cố vấn quân sự vào miền Nam Việt Nam. Ngoài phái đoàn viện trợ quân sự Mĩ (MAAG – Military Assistance Advisory Group), còn có phái đoàn tổ chức, huấn luyện, kiểm tra, phái đoàn huấn luyện và tác chiến. Đầu năm 1955, Mĩ – Diệm giải ngũ nhiều sĩ quan thân Pháp, dành 2/3 số tiền viện trợ cho quân sự, gấp rút cải tổ đạo quân Nguỵ hỗn tạp mang nặng tư tưởng chiến bại do Pháp để lại thành lập một “quân đội quốc gia”. Đến tháng 6/1956, Mĩ – Diệm đã hoàn tất xong việc xây dựng.

Về lục quân, gồm 10 sư đoàn, 13 trung đoàn địa phương, 5 trung đoàn giáo phái, 1 trung đoàn dù. Pháo binh có 7 tiểu đoàn và 9 đại đội. Cơ giới có 5 trung đoàn (trong đó 1 trung đoàn xe lội nước). Công binh có 6 tiểu đoàn, 14 đại đội. Vận tải có 12 đại đội.

Không quân, lực lượng máy bay chiến đấu có 100 chiếc; dự trữ có 132 chiếc. Các căn cứ không quân Pháp đã chuyển giao cho chính quyền Sài Gòn được sửa chữa, thiết bị đầy đủ hơn. Bốn căn cứ Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất, Phú Bài và Nha Trang, máy bay phản lực F84, F86 lên xuống được. 58 sân bay loại nhỏ dành cho máy bay Dakota phần lớn hư hỏng đang sửa chữa lại. Mĩ còn xây dựng tại miền Nam Việt Nam một hệ thống viễn thông để điều khiển các hoạt động của không quân Mĩ giữa miền Nam Việt Nam, Philippin và Thái Lan.

Hải quân, gồm 2 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến, 4 đại đội không quân trợ chiến, 1 đại đội biệt kích hải quân, 121 tàu chiến đấu trên sông trọng tải 5.130 tấn, 25 tàu hải quân trên biển trọng tải 7.795 tấn, 95 tàu của lực lượng ở các căn cứ trọng tải 2.680 tấn. Các căn cứ hải quân cũ được tổ chức lại thành 4 hải khu. Các quân cảng Nhà Bè, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang…được mở rộng và nâng cấp với trang thiết bị hiện đại.

Lực lượng bảo an đoàn được tăng cường lên tới 60.000 tên. Mỗi quận có 1 đại đội, quận lớn có 2 đại đội.

Các đơn vị dân vệ và phòng vệ dân sự được tổ chức ở hầu khắp các liên xã; cứ 12.000 dân có 1 đội dân vệ từ 20 – 25 người, được trang bị súng trường và lựu đạn.

Công an, cảnh sát cũng được xây dựng thành lực lượng công khai và bí mật từ tỉnh, thành đến quận, phường, xã, thôn. Riêng Sài Gòn – Chợ Lớn tăng từ 6.000 lên 10.000 cảnh sát.

Mĩ tăng cường phái đoàn MAAG, đưa cố vấn xuống nắm các quân khu, sư đoàn và binh chủng. Các loại vũ khí và dụng cụ chiến tranh do Mĩ đưa vào miền Nam ngày càng nhiều. Nếu tính thành giá trị, từ năm 1955 – 1960, tổng số vũ khí và phương tiện chiến tranh do Mĩ đưa vào miền Nam là 1,5 tỷ đô la. Từ chỗ gần như không có gì, đến 1960, chính quyền Ngô Đình Diệm có trong tay khoảng 250 máy bay các loại, 250 tàu chiến trọng tải cỡ 20.000 tấn, 600 xe bọc thép, 100 xe tăng…

Song song với việc xây dựng Nguỵ quân, gạt bỏ các thế lực thân Pháp, Mĩ – Diệm dùng lực lượng quân sự tiêu diệt các LLVT giáo phái thân Pháp để loại trừ khả năng chống đối, thống nhất quân đội dưới quyền chỉ huy của anh em Diệm.

Ngày 26/4/1955, Diệm cách chức Lại Văn Sang (phái Bình Xuyên) Tổng giám đốc cảnh sát và công an Sài Gòn, bãi bỏ độc quyền của Bình Xuyên trong thu thuế tại sòng bạc “Đại Thế giới”. Ngày 28/4/1955, lấy cớ Bình Xuyên chống lệnh, Diệm cho quân tấn công. Chiến sự nổ ra ngay tại trung tâm Sài Gòn. Ngày 30/4/1955, quân Diệm tiếp tục tiến công, quân Bình Xuyên phải rút ra khỏi Sài Gòn, lui về Rừng Sác. Ngày 21/9/1955, Diệm mở chiến dịch “Hoàng Diệu” bao vây và tấn công vào khu Rừng Sác. Đến ngày 24/10/1955, phái Bình Xuyên bị tiêu diệt. Bảy Viễn chạy trốn ra nước ngoài. Nguy cơ đe doạ trực tiếp đối với chính quyền Diệm ở Sài Gòn bị đẩy lùi.

Cùng lúc với tấn công Bình Xuyên, ngày 20/5/1955, Diệm mở chiến dịch “Đinh Tiên Hoàng” đánh vào quân đội Hoà Hảo, kéo dài đến tháng 12/1955, nhưng đại bộ phận vùng căn cứ Đồng Tháp Mười, quân Diệm không sao kiểm soát được. Ngày 1/11/1956, Diệm huy động một lực lượng lớn (4 sư đoàn bộ binh, 6 chi đoàn thiết giáp, 5 tiểu đoàn pháo binh, 4 hải đoàn xung phong, 1 tiểu đoàn nhảy dù) do Dương Văn Minh chỉ huy, mở chiến dịch “Nguyễn Huệ” nhằm thanh toán bằng được quân Hoà Hảo. Lực lượng Hoà Hảo đánh trả quyết liệt, nhưng do nội bộ mâu thuẫn, chia rẽ, nên bị tiêu hao dần. Ngày 17/2/1956, Năm Lửa đưa 4.000 quân ra đầu hàng Diệm. Riêng Ba Cụt, ngày 13/4/1956, bị Diệm đánh lừa, bắt sống và bị chém đầu. Đến đây, quân đội Hoà Hảo xem như đã tan rã.

Khi Diệm tấn công Bình Xuyên và Hoà Hảo, phái Cao Đài chủ trương án binh bất động để chờ thời. Tháng 10/1955, Mĩ – Diệm dùng thủ đoàn chia rẽ nội bộ phái này để phá bỏ bộ máy hành chính của Cao Đài, uy hiếp Toà thánh Tây Ninh. Lực lượng Cao Đài phải chống lại bằng hoạt động vũ trang. Nhưng vì nội bộ bị phân hoá, hành động không thống nhất, nên đến tháng 6/1956, đại bộ phận Cao Đài bị tiêu diệt và ra đầu hàng Diệm.

Ở Trung Bộ, lực lượng Quốc dân Đảng hoạt động tại Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định; lực lượng Đại Việt hoạt động tại Quảng Trị, Thừa Thiên. Cả hai đều là lực lượng chống lại cách mạng, nhưng cũng chống Diệm để mặc cả địa vị với Diệm. Từ tháng 9/1955 – 1/1956, chúng bị lực lượng của Diệm liên tiếp tấn công, bao vây, triệt tiêu tiếp tế, nên đã bị tan rã và lần lượt đầu hàng Diệm.

c/ Chính sách khủng bố của Mĩ – Diệm:

Với Mĩ – Diệm, lực lượng cách mạng của nhân dân miền Nam là mối hiểm hoạ cơ bản nhất đối với chế độ của chúng. Vì vậy, ngay khi vừa lên cầm quyền ở miền Nam, Ngô Đình Diệm đã cho tay chân tổ chức các cuộc vây bắt, tàn sát, khủng bố hết sức ác liệt những người kháng chiến cũ, những người đấu tranh đòi hiệp thương, tổng tuyển cử, thống nhất đất nước và cả những người không ủng hộ Diệm.

Lợi dụng lúc Quân đội nhân dân Việt Nam rút khỏi các vị trí đóng quân, các vùng tự do cũ về nơi tập kết, địch tiến hành đánh phá ngay, hòng gây không khí khủng khiếp trong nhân dân, làm cho hàng ngũ đảng viên và quần chúng bị rối loạn. Với phương châm “tiêu diệt cộng sản không thương tiếc”, “tiêu diệt cộng sản tận gốc”, “thà giết lầm hơn bỏ sót”.v.v. Mĩ – Diệm đã gây ra hàng loạt vụ tàn sát bằng những hình thức giết người man rợ thời trung cổ, kết hợp với những phương pháp tra tấn, cực hình hiện đại, hòng bóp chết tinh thần yêu nước, tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam. Ngày 2/8/1954, địch đã gây ra vụ tàn sát ở Kim Đôi (Thừa Thiên) làm 17 người chết, 67 người bị thương; ngày 4/9/1954 ở Chợ Được (Quảng Nam) địch giết 39 người và làm bị thương 37 người; ngày 7/9/1954 ở Ngân Sơn – Chí Thạnh (Phú Yên) chúng giết 80 người, làm 50 người bị thương; ngày 13/9/1954 ở Mỏ Cày (Bến Tre) địch giết chế 17 người, làm bị thương 500 người; ngày 23 – 29/9/1954 ở Hà Nật – Chiên Đàn – Cây Cốc (Quảng Nam) địch giết 105 người, làm bị thương 186 người; ngày 25/10/1954 tại Vinh Xuân (Cần Thơ) chúng giết 54 người, làm bị thương 19 người; đêm 21/1/1955 bọn Quốc dân Đảng ở Duy Xuyên (Quảng Nam) câu kết với tay chân Diệm đến nhà lao Hội An bắt 38 đồng chí của ta chở đến đập Vĩnh Trinh giết chết rồi ném xuống vực. Dã man hơn, từ ngày 9 – 20/7/1955, địch bao vây và tàn sát nhân dân Hướng Điền (Quảng Trị) giết 92 người, trong đó có 31 trẻ em; và nhất là vụ đầu độc một lúc 6.000 người yêu nước ở nhà giam Phú Lợi (Thủ Dầu Một) ngày 1/12/1958.v.v. Đó chính là những bằng chứng tố cáo tính chất tàn bạo của chế độ Mĩ – Diệm ngay khi vừa mới lên cầm quyền ở miền Nam Việt Nam.

Từ giữa năm 1955, tập đoàn Ngô Đình Diệm mở chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” trên toàn miền Nam và coi đây là “quốc sách”. Mở đầu cho chiến dịch “tố cộng”, ngày 12/5/1955, chính quyền Sài Gòn tổ chức “Đại hội tố cộng toàn quốc” dưới sự chủ toạ của Ngô Đình Diệm, nhằm cổ vũ, hô hào tay chân đi vào con đường khủng bố nhân dân. Diệm và tay chân cho rằng “phong trào tố cộng là một vũ khí sắc bén nhất, màu nhiệm nhất, để tiêu diệt chiến tuyến cộng sản… Có thành công trong việc tố cáo tội ác của cộng sản…mới làm cho toàn dân ghê sợ cộng sản, căm hờn cộng sản, và mới làm cho một số người lừng khừng quyết tâm ruồng bỏ mọi tư tưởng sai lầm, không đứng núi nọ nhìn núi kia nữa, để họ có thể sẵn sàng ngả theo chiến tuyến quốc gia”.

Mục đích của chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” của Mĩ – Diệm là cốt nhằm “gây uất hận trong dân chúng đối với Việt cộng:

a) Để cho nhân dân tố giác Việt cộng ở lại hoạt động.

b) Khủng bố tinh thần Việt cộng làm cho Việt cộng nghi ngờ quần chúng mà không dám hoạt động nữa.

c) Đánh lệch tư tưởng các phần tử lừng chừng còn hướng về cộng sản phải ngả hẳn về chính phủ quốc gia.

d) Thêm phương tiện để kiểm soát cán bộ cộng sản còn ở lại hoạt động trong vùng quốc gia kiểm soát”.

Để thực hiện quốc sách “tố cộng, diệt cộng”, một mặt chính quyền Ngô Đình Diệm kiện toàn bộ máy đàn áp, “Tổng uỷ công dân vụ” được thành lập tháng 3/1955, ngày càng được tăng cường và chuyên lo việc đàn áp chính trị với gần 4.000 tên mật vụ, 9.000 tên mật hộ viên, 12.000 liên gia trưởng. Một hệ thống tổ chức “tố cộng” từ trung ương xuống tận các xã thôn. Ở Sài Gòn, lập Hội đồng nhân dân chỉ đạo tố cộng, gồm tất cả các Bộ trưởng trong chính phủ do đích thân Ngô Đình Diệm làm Chủ tịch danh dự và Trần Chánh Thành làm Chủ tịch Hội đồng. Hội đồng chỉ định ra Uỷ ban chỉ đạo tố cộng trung ương, có ban thường trực gồm đại diện của các Bộ Thông tin, Công an, Quốc phòng. Nhiệm vụ của Uỷ ban chỉ đạo này là trực tiếp chỉ đạo phong trào tố cộng ở các tỉnh, các cơ quan; đào tạo cán bộ phong trào. Uỷ ban có nhiều ban giúp việc.

Mỗi tỉnh có một Uỷ ban chỉ đạo tố cộng. Mỗi Bộ có một Uỷ ban chỉ đạo dọc xuống các cơ quan thuộc bộ mình. Thành phần ban chỉ đạo giống như ở trung ương, còn ở các cơ quan thì gồm đại biểu cơ quan và liên đoàn công chức của Phong trào cách mạng quốc gia. Huyện, xã đều có Uỷ ban chỉ đạo tố cộng của huyện, xã mình. Mỗi xã, thôn lại chia ra làm nhiều liên gia tố cộng.

Trong năm 1955, dưới nhãn hiệu “Phái bộ đại học đường Michigan”, các cố vấn Mĩ đến miền Nam giúp Diệm xây dựng bộ máy công an, cảnh sát, đào tạo cán bộ, phổ biến kỹ thuật điều tra và tra tấn, thành lập một hệ thống điều tra lí lịch tối tân.

Mặt khác, để có cơ sở pháp lí cho chính sách khủng bố, chính quyền Ngô Đình Diệm ban hành các luật lệ phát xít, trong đó có Dụ số 6 (11/1/1955) về việc lập các trại tập trung, giam giữ những người gọi là “nguy hiểm cho quốc phòng và an ninh”; Dụ số 13 (20/2/1956) bóp nghẹt quyền tự do báo chí.

Từ tháng 5 đến tháng 6/1955, Mĩ – Diệm phát động “chiến dịch tố cộng giai đoạn I” trên quy mô lớn toàn miền Nam. Địch chia giai đoạn I tố cộng ra làm 3 giai đoạn: đợt 1 từ 15/5/ đến cuối tháng 8/1955, trọng điểm là các tỉnh miền Trung; đợt 2 từ tháng 9 – 11/1955, trọng điểm tiến hành là trong nội bộ các cơ quan Nguỵ quyền; đợt 3 từ 15/11/1955 đến tháng 5/1956 làm rộng rãi ở các tỉnh để triệt hạ uy thế chính trị của cộng sản và thanh trừng số cán bộ cầu an của chúng ở xã.

Ở mỗi đợt gồm nhiều bước, có điều chỉnh, rút kinh nghiệm. Kế hoạch “tố cộng” của địch lúc đầu đánh trên diện rộng, sau đánh vào chiều sâu, đánh cả nông thôn và thành thị. Mục tiêu của chúng là tập trung vào những nơi có phong trào cách mạng mạnh trong kháng chiến chống Pháp. Thực hiện được như vậy, Mĩ – Diệm sẽ củng cố được thế lực, đẩy mạnh những hoạt động phá hoại hoà bình, dập tắt được phong trào đấu tranh của nhân dân đòi hiệp thương, tổng tuyển cử.          Phương châm hoạt động của địch là: “Tất cả phục vụ cho chiến dịch tố cộng”. Địch chia nhân dân ra làm 3 loại: loại cán bộ và đảng viên cộng sản; loại gia đình có người đi tập kết; loại nhân dân nói chung. Tuỳ theo đối tượng mà địch tổ chức “tố cộng” có mức độ khác nhau.

Cùng với việc tổ chức học tập, địch tiến hành điều tra nắm tình hình, gây cơ sở gián điệp, tìm nòng cốt trong địa chủ, cường hào, thành phần bất mãn, phản động ở từng địa phương cho học tập trước rồi giao nhiệm vụ phân loại nhân dân. Chính thành phần này sau học tập nắm giữ những chức vụ chủ chốt trong bộ máy chính quyền, công an địa phương và là những kẻ xung kích đàn áp, khủng bố nhân dân trong các chiến dịch “tố cộng” của địch.

Sau khi học tập, địch bắt mọi người phải tố giác cộng sản. “Không tố giác là phản quốc”. Địch phát phiếu cho từng gia đình bắt kê khai những người cách mạng, yêu nước, rồi bắt tất cả những người bị phát giác hoặc tình nghi viết kiểm thảo (tẩy não), kê khai lí lịch, li khai Đảng, xé cờ Đảng và ảnh lãnh tụ, viết cáo trạng tố cáo cộng sản.

Ở Nam Bộ, địch lấy Chợ Lớn làm thí điểm “tố cộng”, rồi triển khai ra khắp miền. Chiến dịch “tố cộng” ở đây được chia làm 2 bước:

Bước 1, chuẩn bị, địch tiến hành đổi thẻ căn cước, nắm lại dân và chia dân ra làm ba loại (loại A là loại công dân bất hợp pháp gồm cán bộ, đảng viên và những người kháng chiến cũ; loại B là loại công dân nửa hợp pháp gồm những gia đình có người đi tập kết, có liên quan đến những người kháng chiến cũ; loại C gồm những người không liên quan đến cách mạng). Phương châm khủng bố của địch là dựa vào loại C, đánh vào loại A, làm cho loại B khiếp sợ và khuất phục. Sau khi đã phân loại, địch buộc những người kháng chiến cũ phải ra trình diện, nhận giấy chứng nhận “cán bộ hồi chánh”.

Bước 2, thực hiện, mở đầu bằng việc địch tổ chức tuyên truyền quy mô qua hệ thống thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh. Tay chân Mĩ – Diệm ra sức xuyên tạc, bôi nhọ những người cộng sản, những người kháng chiến, gây tâm lí hoài nghi, không tin tưởng lẫn nhau giữa bà con làng xóm, cha mẹ, anh em trong gia đình.v.v.

Trong các đợt học tập “tố cộng”, địch còn sử dụng quyền lợi vật chất và địa vị để mua chuộc, dụ dỗ cán bộ ta: “Song song với thuyết phục, để có thể nắm vững được tình hình chung của khoá học, ta (chính quyền Sài Gòn) cần phải mua chuộc trong số chánh trị phạm được cải hoá, những phần tử xét ra có thể làm tai, mắt ta được, bằng những lợi ích vật chất: tiền bạc, địa vị,…”. Ngoài tuyên truyền, thuyết phục, dụ dỗ, địch tổ chức các cuộc vây ráp, khủng bố, tra tấn những người kháng chiến cũ để uy hiếp tinh thần nhân dân. Đây là biện pháp chủ yếu nhất.

Kết thúc giai đoạn I, địch đã thực hiện được một số ý đồ của chúng, như gây hoang mang trong nhân dân, gây nghi ngờ, sợ sệt giữa quần chúng và cán bộ. Trong bộ máy chính quyền, địch đã thanh lọc những người không theo chúng và tập hợp được lực lượng phản động nòng cốt. Đặc biệt nghiêm trọng là do địch khủng bố hết sức dã man nên một số địa phương đã có nhiều đảng viên ra đầu hàng, tự thú với địch.

Từ tháng 7/1956 trở đi, địch mở chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” giai đoạn II, trọng điểm là đánh vào miền Đông Nam Bộ và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Để hợp pháp hoá chính sách “tố cộng, diệt cộng”, điều 7 Hiến pháp (26/10/1955) của “Việt Nam cộng hoà” ghi: “Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức đều trái với nguyên tắc ghi trong hiến pháp”. Phương châm của “quốc sách diệt cộng” là: “Tiêu diệt Việt cộng không thương tiếc…tiêu diệt như trong tình trạng chiến tranh, thà giết lầm chứ không bỏ sót”.

Ở giai đoạn này, địch điều tra rồi phân loại theo gia đình: gia đình loại A là gia đình những người kháng chiến cũ, gia đình có người tham gia tập kết, những người yêu nước, thiết tha với hoà bình, độc lập, thống nhất mà địch gọi chung là “Việt cộng” – địch coi đây là loại gia đình bất hợp pháp; loại B là những gia đình có bà con, họ hàng thân thuộc với loại A, cũng được liệt vào danh sách gia đình bất hợp pháp; loại C gồm những gia đình vây cánh hậu thuẫn cho chính quyền Ngô Đình Diệm, được ưu đãi về chính trị, kinh tế.

Những người thuộc gia đình loại A và B bị bắt tập trung học tập “tố cộng”. Trước hết, địch bắt mọi người học tập chính trị và liên hệ nói xấu cách mạng, nói xấu Việt cộng, coi Mĩ – Diệm là chính nghĩa, thừa nhận bọn phản quốc tay sai Mĩ là chính nghĩa quốc gia. Địch bắt mỗi người phải tự khai nhận về hoạt động của bản thân mình, tố giác các đồng chí, đồng bào và người thân của mình. Những người bị tố giác, địch bắt phải tự nhận là “Việt cộng” được cài lại để phá hoại. Những người không “nhận tội” sẽ bị tra tấn ngay tại chỗ, tại lớp học hay trong các phòng thẩm vấn và có thể bị thủ tiêu.

Để uy hiếp tinh thần những người bị bắt và tạo ra sự sợ hãi trong quần chúng, địch đưa một số tên đầu hàng phản bội tố cáo Đảng, xuyên tạc chủ trương, đường lối cách mạng, xé cờ Đảng và ảnh Bác Hồ, tham gia tra tấn, thẩm vấn những người bị bắt. Cách thức tra tấn của Mĩ – Diệm tàn ác không kém gì so với thời Trung cổ, như dùng đinh đóng vào các khớp xương, treo người lên xà nhà, đổ nước xà phòng, tra điện… Một biện pháp hết sức thâm độc của Mĩ – Diệm được áp dụng phổ biến trong chiến dịch “tố cộng” lần này là địch bắt mọi người “sám hối”. Người “sám hối” phải đứng hoặc quỳ lên những chồng gạch xếp cao chênh vênh, dưới đất có cắm chông sắt nhiều ngạnh, mắt nhìn thẳng vào ảnh Ngô Đình Diệm bên cạnh một ngọn đèn điện có công suất hàng trăm oát. Trong phòng “sám hối” còn có hương trầm khói xông lên ngạt thở. Người bị “sám hối” phải đứng hoặc quỳ liên tục như vậy trong nhiều giờ, nhiều người không chịu nổi đã ngất xỉu; nhiều người tê mỏi phải cựa mình liền bị tay chân Diệm đánh đập, tra tấn khiến ngã nhào bị chông đâm rách người.

Qua các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” của Mĩ – Diệm, hàng ngàn cán bộ, đảng viên, đồng bào bị địch tra tấn, thủ tiêu, giết hại, tù đày… Tại nhà tù Côn Đảo, với hệ thống “chuồng cọp”, người bị giam hoàn toàn biệt lập với thế giới bên ngoài, thường xuyên bị đánh đập, tra tấn dã man. Chỉ trong 3 năm từ 1957 đến 1959, đã có 3.000 / 4.000 người bị chết. Nhà lao Bến Tre không những chứa 1.000 người như trước, mà thường xuyên phải chứa khoảng 3.000 người. Nhà lao Phú Lợi, người bị giam trong hầm lộ thiên, sâu khoảng 3 -4m, rộng 3m, trên mặt hầm rào bằng dây thép gai, không lợp mái, nên tù nhân phải chịu phơi mưa, nắng, sương gió suốt ngày đêm, tư thế luôn luôn phải ngồi, đứng thì chạm đầu bị thép gai đâm. Ngày 1/12/1958, tại đây, địch đầu độc một lúc 6.000 người, làm 4.000 người trúng độc, 1.000 tù nhân chết tại chỗ. Số khác, địch dùng hình thức chuyển vùng đưa đi quản thúc. Rất đông cán bộ, đảng viên từ Nam Bộ bị đưa lên Tây Nguyên quản thúc, thực chất là lao dịch khổ sai.

Chính sách khủng bố điên cuồng của Mĩ – Diệm đã gây cho cách mạng miền Nam nhiều tổn thất nghiêm trọng. Ở Quảng Trị, cuối 1954, sau khi thực hiện xong việc chuyển quân tập kết, số đảng viên còn lại là 8.400, phân bố khắp các địa phương trong tỉnh; cuối 1957, chỉ còn lại 306 cán bộ, đảng viên. Ở Thừa Thiên, sau khi chấn chỉnh tổ chức còn 300 đảng viên; đến 1957, ở đồng bằng còn vài chi bộ, miền núi còn lại duy nhất 1 chi bộ. Ở Liên khu V, số cán bộ, đảng viên còn lại sau tập kết bình quân mỗi tỉnh trên dưới 10.000; nhưng đến cuối 1956, đầu 1957, hầu hết các tổ chức Đảng ở Liên khu V bị tan vỡ (70% số cấp uỷ xã; 60% huyện uỷ viên; 40% tỉnh uỷ viên ở các tỉnh đồng bằng bị bắt, bị giết), nhiều huyện, nhiều xã không còn cán bộ lãnh đạo. Ở Đảng bộ Quảng Nam – Đà Nẵng, hoà bình lập lại có 35.000 đảng viên; đến cuối 1958, còn dưới 100 đồng chí hoạt động đơn tuyến. Nếu tính cả miền núi và đồng bằng, thì tỉnh khá nhất cũng chỉ còn 10 chi bộ, mỗi chi bộ có 3 đảng viên, tỉnh yếu chỉ còn 2 – 3 chi bộ.

Tại Nam Bộ, nhiều cơ sở bí mật ở địa phương bị thiệt hại nặng nề. Ở Trà Vinh, địch bắt 42 người, giết 3 cán bộ cơ sở của ta. Ở An Giang, địch bắt 21 cán bộ của ta, làm 13 chi bộ ở hai huyện Tịnh Biên và Tri Tôn tê liệt hoàn toàn. Ở Kiến Tường, trong 6 tháng cuối năm 1958, địch đã bắt, thủ tiêu và mang đi mất tích 132 cán bộ, đảng viên. Đặc biệt nghiêm trọng là ở Kiến Hoà, Định Tường, từ tháng 7 đến tháng 9/1958, địch đã bắt 95 người, trong đó có 2 tỉnh uỷ viên, 2 huyện uỷ viên, 13 chi uỷ viên, 20 cán bộ giao liên và 11 đảng viên cơ sở.

Tính đến cuối 1958, trên toàn miền Nam, Mĩ – Diệm đã giết hại 68.000 cán bộ, đảng viên; bắt giam 466.000 người; tra tấn thành thương tật 680.000 người.

Song song với chiến dịch “tố cộng”, Mĩ – Diệm dùng lực lượng quân đội, cảnh sát, bảo an, dân vệ càn quét, đánh phá dữ dội vùng nông thôn, khu căn cứ. Từ 24/6/1956 đến 24/2/1957, Mĩ – Diệm dùng một lực lượng quân đội lớn mở chiến dịch “Thoại Ngọc Hầu” đánh vào các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, miền Tây và Trung Nam Bộ nhằm thanh toán LLVT cách mạng liên kết với tàn dư giáo phái Hoà Hảo đang hoạt động ở đây, qua đó chúng nhằm củng cố chính quyền nông thôn của chúng.

Ngày 23/3/1959, Diệm công khai tuyên bố tình trạng chiến tranh ở miền Nam và lấy cớ đó để huy động toàn bộ quân đội, cảnh sát vào các cuộc hành quân càn quét. Địch tập trung đánh vào các khu căn cứ của ta ở miền Đông Nam Bộ, Đồng Tháp Mười và U Minh. Trong năm 1959, địch mở 279 cuộc hành quân càn quét, trong đó có 12 cuộc càn với quy mô lớn từ cấp trung đoàn trở lên. Ngày 6/5/1959, Diệm ban hành Luật 10/59. Tới ngày 3/7/1959, Diệm tuyên bố “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật” và thành lập các Toàn án Quân sự đặc biệt ở Sài Gòn, Buôn Mê Thuột, Huế, đưa máy chém về địa phương để thi hành ngay tại chỗ các bản án tử hình. Chỉ trong một thời gian ngắn cuối năm 1959, Toà án Quân sự đặc biệt Sài Gòn đã lưu động trong 9 tỉnh Nam Bộ và tuyên bố 20 án tử hình, 27 án khổ sai chung thân.

d) Về tư tưởng, văn hoá, giáo dục:

Tư tưởng bao trùm, chỉ đạo mọi hoạt động của chính quyền Ngô Đình Diệm là tư tưởng “chống cộng”. Vũ khí tư tưởng mà chính quyền Ngô Đình Diệm sử dụng để chống cộng, tức là chống lại nhân dân miền Nam, là chủ nghĩa “nhân vị”, một thuyết duy tâm nhằm thủ tiêu tinh thần đấu tranh của quần chúng, một thứ triết học phản động được Diệm – Nhu khai thác và sử dụng.

Từ năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm cho phép các linh mục giảng dạy “chủ nghĩa nhân vị” ở Đại học Văn khoa Sài Gòn. Tiếp theo, Ngô Đình Diệm cho thành lập “Trung tâm huấn luyện nhân vị” ở Vĩnh Long, đặt dưới quyền quản lí trực tiếp của Giám mục Ngô Đình Thục (anh ruột của Diệm). Ban Giám đốc và Ban Giảng huấn đều là các linh mục hoặc là tín đồ Thiên Chúa giáo. Cán bộ, viên chức Nhà nước từ Trung ương (Bộ, Tổng, Nha) xuống địa phương (tỉnh, quận) đều bị bắt buộc phải về thụ huấn tại “Trung tâm Nhân vị Vĩnh Long”, nhằm để “am tường chủ nghĩa nhân vị”. Nhưng khi về đây, họ bị bắt ép học tập giáo lí Thiên Chúa giáo và dụ dỗ hoặc mua chuộc họ vào Thiên Chúa giáo. Sau đó chủ nghĩa nhân vị được tay chân Diệm đưa xuống nông thôn thông qua các đợt chỉnh huấn, qua các lớp học tập “tố cộng, diệt cộng”. Và khi chủ nghĩa nhân vị xuống địa bàn nông thôn, nó đã gây ra không biết bao nhiêu nỗi thống khổ cho những người dân vô tội, nhất là ở các địa bàn các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Rất nhiều trường hợp bị chính quyền Ngô Đình Diệm buộc phải “cải đạo” sang Thiên Chúa giáo, nếu không thì đủ mọi thứ tai ương sẽ ập đến.

Cùng với “chủ nghĩa nhân vị”, Mĩ – Diệm còn tạo dựng thêm những vỏ bọc giả hiệu cho chế độ Ngô Đình Diệm, như “cộng hoà”, “quốc gia”, “độc lập”, “quốc hội”, “hiến pháp”…; suy tôn Ngô Đình Diệm là “chí sĩ”, “anh minh”…

Về giáo dục, ngay từ khi chính quyền Ngô Đình Diệm vừa thành lập, cơ quan giáo dục Mĩ trực thuộc USAID (United States Agency for International Development – Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ) đã đưa ra mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của Mĩ trong việc tổ chức giáo dục miền Nam, trong đó coi “việc bình định cơ quan giáo dục, đóng góp trực tiếp vào công cuộc bình định qua các chương trình giáo dục tiểu học và giáo dục tráng niên ở Việt Nam cộng hoà” là rất quan trọng. Đường lối giáo dục của Mĩ – Diệm ở miền Nam thể hiện một số nét lớn như sau:

Một là, hệ tư tưởng chủ đạo trong đường lối giáo dục của Mĩ – Diệm là hệ tư tưởng duy linh, nhân vị lồng dưới những nhãn hiệu man trá: “cách mạng quốc gia”, “dân tộc tính”, “Á Đông tính”.v.v. Trong phần mở đầu của Hiến pháp năm 1956 của Việt Nam cộng hoà, chủ nghĩa nhân vị được xem như là tiêu điểm mà hầu hết các lĩnh vực quốc gia phải khuôn theo: “xây dựng dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội cho toàn dân trong sự tôn trọng nhân vị”.

– Hai là, mục tiêu của Mĩ – Diệm là biến giáo dục thành một công cụ phục vụ mưu đồ xâm lược lâu dài. Tham vọng của Mĩ – Diệm đặt ra cho nền giáo dục là: “Vũ trang cho thanh niên một tinh thần quốc gia mãnh liệt, một ý chí bền bỉ đấu tranh cho tự do, dân chủ”. Song thực chất, đường lối giáo dục của Mĩ – Diệm mang nặng tính chất nô dịch, phản dân tộc. Điều này biểu hiện cụ thể như ở việc ca ngợi, tuyên truyền “lối sống Mĩ, văn minh Mĩ”; tiếng Việt bị khinh rẻ, không được sử dụng giảng dạy trong các trường đại học. Chính quyền Ngô Đình Diệm giải tán “Ban vận động dùng Việt ngữ ở bậc đại học”, và mãi cho đến cuối thời “Đệ nhất cộng hoà”, việc sử dụng tiếng nước ngoài trong giảng dạy ở bậc đại học vẫn còn tồn tại.

– Ba là, Mĩ – Diệm thi hành một đường lối giáo dục nhằm biến nhà trường miền Nam thành những công cụ phục vụ cho những quốc sách, như “tố cộng, diệt cộng”, “dinh điền”, “khu trù mật”, mà thực chất là góp phần vào mục tiêu tiêu diệt kháng chiến. Trần Hữu Thế, nguyên Bộ trưởng Bộ giáo dục miền Nam, năm 1958 đã phát biểu: “Nhà trường không phải là một cái tháp ngà cô lập hay một nhà máy sản xuất văn bằng. Trong xã hội mới, nhà trường là của cộng đồng, sống cho cộng đồng, do đó giáo chức không chỉ có nhiệm vụ đối với con em mà còn có nhiệm vụ đối với cộng đồng. Nghĩa là nhà trường không phải chỉ lo giáo dục con em, mà còn phải thực hiện tất cả các “quốc sách chống cộng”, “tố cộng đồng dân lập”, “khu dinh diền”, “khu trù mật”…”.

Đi đôi với đường lối giáo dục phản động về mặt nội dung nói trên là cả một đường lối phản động về mặt tổ chức. Một mặt, Mĩ – Diệm đặt nhà trường dưới sự kiểm soát gắt gao của tổ chức mật thám, thực hiện chính sách chia rẽ giữa học sinh – sinh viên lương và giáo, giữa học sinh Thiên Chúa giáo và Phật giáo; chia rẽ giữa học sinh di cư và học sinh quê quán ở miền Nam, giữa học sinh Kinh và Thượng, phân biệt đối xử giữa trường công và trường tư. Dưới nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, Mĩ – Diệm cố đánh lộn sòng giữa chính nghĩa và phi nghĩa, làm cho thật hư lẫn lộn, nhất là đối với những sự kiện, nhân vật lịch sử. Chẳng hạn, chúng dựng lên việc Việt Minh cướp công các đảng phái quốc gia trong Cách mạng tháng Tám, hoặc xếp lẫn lộn những người yêu nước và những kẻ bán nước, thoả hiệp.v.v. Mặt khác, chính quyền Ngô Đình Diệm đã cấp phát cho Thiên Chúa giáo nhiều đất đai, tiền bạc để xây dựng trường học; dành cho Giáo hội Thiên Chúa giáo quyền chi phối các trường học về mặt tinh thần cốt để đảm bảo nội dung giáo dục “duy linh”, “cộng hoà”, “nhân vị”, mà thực chất là nội dung thần học theo lối kinh viện trung cổ. Dưới thời Diệm, miền Nam có 3 Viện đại học, trong đó Viện trưởng của các Viện Đại học đều là các linh mục. Hầu hết các Giáo sư Triết học đều là linh mục hoặc là tín đồ Thiên Chúa giáo. Hệ thống trường tư thục Thiên Chúa giáo từ mẫu giáo đến đại học phát triển rất nhanh chóng. “Từ năm 1953 đến 1963, Diệm cho xây dựng 145 trường cấp II và cấp III, riêng Sài Gòn có 30 trường. Với tổng số 62.324 học sinh. Trong thời gian này, Giáo hội Thiên Chúa giáo ở miền Nam, từ chỗ chỉ có 3 trường cấp II và III, đến năm 1963 đã lên tới 1.060 trường”, trong lúc đó số giáo dân không đầy 10%.

Phần lớn các học bổng đi học nước ngoài đều rơi vào tay các linh mục hoặc sinh viên Thiên Chúa giáo. Các tuyển chọn thầy giáo, cũng như cách đánh giá kết quả học tập của sinh viên, học sinh đều xây dựng tiêu chí trên cơ sở ý thức hệ Thiên Chúa giáo.

Trong nhà trường, Ngô Đình Diệm bắt học sinh phải hát bài “suy tôn Ngô Tổng thống” mỗi sáng trước lúc vào học và cả sau khi tan học, ca ngợi Diệm là người “quốc gia yêu nước”, “từng lê gót nơi quê người”, tri ân và “xin Thượng Đế ban phước lành cho Người”.

Tới đầu những năm 60, chính quyền Ngô Đình Diệm đẩy mạnh chính sách đàn áp sinh viên, học sinh. Một mặt, từ chỗ chúng cấm sinh viên, học sinh làm chính trị, đến năm 1960, Mĩ – Diệm tăng cường hoạt động “chiến tranh tâm lý”, buộc họ phải học tập chính trị. Đài Sài Gòn, ngày 2/12/1960 giải thích: “Sinh viên, học sinh là những phần tử của xã hội, chính trị bao trùm và ảnh hưởng đến các hoạt động xã hội, dù muốn, dù không, chúng ta vẫn bị chính trị ràng buộc”. Mặt khác, Mĩ – Diệm còn đẩy mạnh việc khủng bố, chỉ trong vòng 3 tháng giữa năm 1960, đã có tới 1.000 sinh viên Sài Gòn bị bắt bớ vì lý do “an ninh công cộng”.Ngoài ra, Mĩ – Diệm cho du nhập các loại phim ảnh, báo chí đồi truỵ để đầu độc nhân dân ta, nhất là tầng lớp thanh, thiếu niên.

e) Về kinh tế:

– Chính sách “Cải cách điền địa”:

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, nông dân miền Nam đã giành cho mình nhiều quyền lợi thiết thực. Trên 650.000ha ruộng đất của thực dân, Việt gian, ruộng đất công, đã được chính quyền cách mạng chia cho nông dân nghèo. Mức địa tô trong các vùng giải phóng và du kích giảm rất nhiều, thường không quá 15%. Nông dân vùng tạm chiếm cũng theo gương đó đấu tranh đòi thực dân Pháp và tay sai phải giảm tô.

Sau khi giúp Diệm lên nắm chính quyền, Nhà Trắng đã cử một “Phái đoàn cố vấn về cải cách điền địa” (do Ladenginxki cầm đầu) sang Sài Gòn, đề ra “quốc sách cải cách điền địa”. Diệm cho thành lập trong bộ máy chính quyền trung ương một cơ quan có tên là “Bộ điền thổ và cải cách điền địa”. Giai đoạn thứ nhất của chương trình “cải cách điền địa” được xem là có mục đích: “cải thiện mối giao dịch giữa chủ và tá điền, khuyến khích khai thác lại ruộng đất bỏ hoang”.

Thực chất của việc “cải thiện mối giao dịch giữa chủ và tá điền…” là chính quyền Ngô Đình Diệm đứng về phía địa chủ phản động, không thừa nhận CCRĐ trong kháng chiến, mà muốn đưa về nguyên trạng như trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ngày 8/1/1955, chính quyền Diệm ban hành Dụ số 2, quy định: lập khế nước tá điền loại A đối với ruộng thục đang làm, trong thời hạn 5 năm, và có thể tái gia hạn; mức tô từ 15 – 25%; lập Uỷ ban Nông vụ để điều hoà quyền lợi giữa điền chủ và tá điền.

Nếu nông dân không chấp nhận kí khế ước là từ bỏ ruộng đất mình đã được chia. Điều đó có nghĩa là chính quyền Diệm nghiễm nhiên thừa nhận ruộng đất ấy thuộc sở hữu địa chủ, kể cả địa chủ Pháp. Tá điền không chịu kí khế ước sẽ bị trục xuất khỏi ruộng đất đó, bị coi là chống đối, có đầu óc cộng sản.

Dụ số 2 đã làm cho mức tô trở nên cao hơn mức tô vào cuối thời Bảo Đại (15%). Bên cạnh đó dụ này cũng không quy định tô vụ chính hay vụ phụ, cho nên nhiều nơi điền chủ bắt nông dân đóng cả 2 vụ như nhau, do đó mà mức tô thực tế tăng cao một cách phổ biến.

Ngày 9/2/1955, chính quyền Diệm ban hành Dụ số 7, bổ sung cho Dụ số 2, quy định việc kí kết khế ước loại B đối với ruộng đất bỏ hoang trong trường hợp địa chủ có mặt. Thời hạn khế ước loại B là 5 năm, tá điền được miễn tô năm đầu, năm sau đóng một nửa, năm sau nữa đóng 3/4, từ năm thứ 4 trở đi phải đóng đủ. Nếu trường hợp địa chủ vắng mặt thì nông dân kí khế ước với Hội đồng hương chính. Đây là cách mà chính quyền Ngô Đình Diệm bắt nông dân nghèo miền Nam và nông dân miền Bắc di cư vào phải canh tác ruộng đất hoang của địa chủ.

Từ sau Hiệp định Giơnevơ (1954), khi lực lượng cách mạng tập kết chuyển quân ra Bắc, tập đoàn địa chủ phản động đã theo gót chân quân đội Sài Gòn trở về làng. Chúng dựa vào những quy định trong Dụ số 2 & số 7 của chính quyền Diệm để đòi lại ruộng đất, đòi nông dân phải truy nộp tô. Khế ước tá điền của chính quyền Diệm thực chất là nhằm giành lại quyền lợi cho giai cấp địa chủ phản động, cướp lấy ruộng đất mà cách mạng đã chia cho nông dân trong kháng chiến. Chính sách ấy đã gây nên một làn sóng phản kháng mạnh mẽ đối với chính quyền Diệm trong nông thôn miền Nam. Chính báo chí Mĩ thời điểm ấy cũng phản ánh “cái nghịch lí” trong chính sách “cải cách điền địa” của Diệm. Kí giả T. Durdin đã viết trên tờ New York Time ngày 4/4/1955 rằng: “Các chuyên gia Mĩ về vấn đề ruộng đất đã thấy ở miền Nam Việt Nam một vấn đề cải cách điền địa kì lạ. Thường thì chính tá điền muốn cải cách điền địa nhiều nhất, trái lại ở miền Nam Việt Nam thì địa chủ lại là những người mong chính phủ cải cách điền địa hơn là tá điền. Sự phản ứng của địa chủ và của tá điền bắt nguồn từ chính quyền nông thôn của Việt Minh trong thời gian chiến tranh. Dưới thời Việt Minh, tá điền sử dụng ruộng đất không phải mất tiền thuê trong trường hợp địa chủ đã trốn đi, và chỉ nộp 15% thu hoạch nếu địa chủ ở lại hợp tác với Việt Minh. Còn theo luật lệ mới về ruộng đất của chính phủ Sài Gòn thì những người thuê đất của địa chủ cũng như các tá điền khác muốn có ruộng cày thì phải kí hợp đồng lĩnh canh và trả cho địa chủ từ 15 đến 25% thu hoạch. Dẫu sao người thuê ruộng đất của địa chủ cũng không hài lòng về chính sách mới đó, vì chính sách ấy đòi hỏi họ nộp nhiều địa tô hơn là số mà họ nộp dưới thời Việt Minh. Trái lại, địa chủ nói chung tán thành chính sách ấy, vì họ được bảo đảm địa tô ít nhất cũng cao hơn địa tô quy định dưới thời Việt Minh”.

Tiếp đó, ngày 22/10/1956, Ngô Đình Diệm ban hành Dụ số 57, mà theo cách nói của chính quyền Sài Gòn là đưa cuộc vận động “Cải cách điền địa” của chế độ đi vào “giai đoạn 2”. Để che giấu mục đích chính trị, điều I của dụ này viết: “Việc cải cách điền địa do dụ này thiết lập có mục đích phân chia ruộng đất cho công bằng giúp tá điền trở nên tiểu điền chủ, phát triển sản xuất nông nghiệp và hướng dẫn các đại địa chủ qua hoạt dộng kỹ nghệ”.

Nội dung chính của việc “phân chia ruộng đất cho công bằng…” theo Dụ số 7 đó là:

1) Mỗi địa chủ có quyền giữ lại 100ha, có quyền chọn thửa ruộng mình muốn giữ lại (Điều 3). Địa chủ có quyền giữ lại 15ha ruộng hương hoả (Điều 5). Ngoài ra, những diện tích ruộng đất mà địa chủ sử dụng trồng cây kỹ nghệ thì cũng có quyền giữ lại, không chịu sự chi phối của Dụ 57 (Điều 4).

2) Số ruộng ngoài 100 mẫu thì thì bị “truất hữu”, nhưng thực tế là chính quyền mua lại, trả 10% bằng tiền mặt, còn 90% thì trả dần bằng trái phiếu, lãi suất 3% mỗi năm, trong vòng 12 năm. Trái phiếu này có thể dùng để mua cổ phần của các công ty, xí nghiệp của chính quyền, hoặc đóng thuế, trả nợ nông tín cuộc…(Điều 21 & 22).

3) Mọi người đàn ông, đàn bà trên 21 tuổi, hoặc đã lập gia đình (trên 18 tuổi) đều được mua đất, “ngoại trừ những nông dân lợi dụng tình thế vừa qua để ngang nhiên chiếm đất của địa chủ, đã tránh không làm khế ước hoặc không đóng địa tô hay thuế điền trong năm vừa qua và không chịu truy nạp trước ngày 31/3/1957” (Điều 11).

4) Nếu những nông dân được mua đất mà chưa trả đủ tiền ruộng đất hay không trả nổi số tiền này, thì đất đai sẽ bị thu hồi và sẽ không được trả lại số tiền mà họ đã góp, không kể những trừng phạt khác được quy định tại điều 27 (Điều 3).

Thực chất của Dụ 57 của luật “Cải cách điền địa” của chính quyền Ngô Đình Diệm là tước bỏ quyền sở hữu ruộng đất của nông dân đã được chính quyền cách mạng công nhận trong kháng chiến, lấy ruộng đất ấy trả lại một phần cho địa chủ và phần còn lại thì rơi vào tay các quan chức chính quyền và quân đội của Diệm. Trong thực tế, chương trình “cải cách điền địa” mà chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành ở nông thôn miền Nam chỉ là sự lừa bịp, bởi 650.000 ha ruộng đất mà cách mạng cấp không cho nông dân trong kháng chiến thì sau hoà bình lập lại đã bị chính quyền Diệm cướp đi rồi bán lại cho họ. Phần đông địa chủ chạy trốn trước đây, giờ đã quay trở lại nông thôn bắt nông dân lập khế ước, nộp địa tô, truy thu số địa tô đã bị phía cách mạng xoá bỏ trong kháng chiến. Chương trình “cải cách điền địa” của chính quyền Ngô Đình Diệm là sự phục hồi quyền lợi cho giai cấp bóc lột ở nông thôn miền Nam.

Sự ra đời của Dụ số 57 là hòng xoa dịu sự phản kháng của nông dân miền Nam trước Dụ số 2 & 57, tuy nhiên sự phản kháng là điều không thể không xảy ra. Báo Le Figaro (2/1961) của Pháp đã nhận xét: “Nhân dân có điều bất mãn đáng kể đối với chế độ, trước tiên là bất mãn với cải cách điền địa. So với cải cách ruộng đất của Việt Minh, thì cuộc cải cách của chính phủ (Diệm) không có gì đáng kể… Kết quả là những người địa chủ đã tản cư về Sài Gòn hồi chiến tranh, nay đã lấy lại ruộng đất và thu được tô, nông dân không thích điều đó”.

– Chính sách “Dinh điền”:

Chính sách “dinh điền” được chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện tiến hành từ năm 1957. Tháng 4/1957, Diệm thành lập “Phủ Tổng uỷ Dinh điền”, chức năng như một Bộ, đặt trực thuộc Phủ Tổng thống (Bùi Văn Lương làm Tổng trưởng; tướng Lê Văn Kim làm phụ tá; cố vấn Mĩ chỉ đạo trực tiếp là Barow). Ngày 9/5/1957, Mĩ tuyên bố viện trợ 10 triệu đô la cho công cuộc dinh điền. Quốc sách “dinh điền” của Mĩ – Diệm là nhằm vào những mục đích sau:

+ Một là, kế hoạch xây dựng các “khu dinh điền”, trước tiên là bắt cho được những cơ sở và những người có tinh thần đấu tranh ở những vùng có ảnh hưởng của cách mạng (nhất là các vùng tự do cũ của Liên khu V và những căn cứ cũ ở Nam Bộ) đưa đi dinh điền (chủ yếu là ở Tây Nguyên, một số khác ở Tây Nam Bộ) để xây dựng các căn cứ quân sự; đồng thời cũng là một biện pháp tập trung thành phần này lại để dễ quản chế, làm xáo trộn các cơ sở cách mạng ở địa phương, làm cho phong trào đấu tranh của nhân dân mất nòng cốt, sẽ tan rã. Ngoài ra, thành phần chủ yếu tham gia dinh điền là dân di cư miền Bắc vào, Mĩ – Diệm âm mưu dùng lực lượng này để kìm kẹp, kiểm soát bộ phận mà chúng nghi là cộng sản bị bắt đưa từ đồng bằng lên.

+ Hai là, lập địa điểm dinh điền là lập những chốt bán quân sự, gồm những người trung thành với Diệm, vào trung tâm những căn cứ kháng chiến cũ ở rừng núi. Báo chí Sài Gòn ủng hộ Diệm cho rằng địa điểm dinh điền là “những pháo đài tiễu Cộng”, là “những cứ điểm bao vây Việt cộng không cho chúng một mảnh đất hoang vu nào để hoạt động”. Báo “Cách mạng quốc gia” (25/4/1958) khen ngợi “đồng bào di cư tình nguyện tham gia kế hoạch dinh điền, rất xứng đáng là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận chống cộng”.

+ Ba là, “quốc sách dinh điền” là một bộ phận chủ yếu trong âm mưu biến miền Nam thành căn cứ quân sự của Mĩ – Diệm. “Khu dinh điền” được tiến hành khắp miền Nam, trong đó Tây Nguyên, vùng chiến lược quan trọng của toàn bộ Đông Dương được địch chú trọng đặc biệt. Rat-pho, Tổng Tham mưu trưởng của Mĩ đã tuyên bố rằng, Tây Nguyên có thể trở thành địa bàn cơ động quan trọng, lấy Plâycu làm trung tâm. Các địa điểm dinh điền là những nơi tập trung nhân lực; nhân lực là nhân tố lớn trong tiềm lực chiến tranh. Tây Nguyên càng quan trọng về chiến lược thì càng phải đưa dân lên đó. Diệm có kế hoạch đưa khoảng 1 triệu dân lên Tây Nguyên.

+ Bốn là, ý nghĩa kinh tế của dinh điền. Các địa điểm dinh điền là những trung tâm trồng cây công nghiệp. Nói cách khác, thông qua lập các khu dinh điền, chính quyền Ngô Đình Diệm muốn trồng một số cây công nghiệp có giá trị cao, như cao su, cà phê, chè, ki-náp, hoa quả đặc sản.v.v.

Để lôi kéo và dồn ép dân chúng vào các khu dinh điền, địch tổ chức học tập tài liệu về dinh điền, trong đó chúng ra sức tuyên truyền lừa gạt rằng, dinh điền là biện pháp nhằm “tăng vốn và lợi ích quốc gia, đồng thời tư hữu hoá nông dân vô sản”, “cải tiến kỹ thuật canh tác”, “điều hoà dân cư”, “chỉnh trang lãnh thổ”, “cải thiện dân sinh”.v.v. Học tập xong, nếu ai không tình nguyện thì “đem ra bình nghị, bắt đi di dân, một sự bình nghị có bố trí công khai để khủng bố nạn nhân và dân chúng”. Có trường hợp, chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ định buộc phải đi dinh điền. Chỉ định mà không chịu đi thì bị xem là “Việt cộng”, “thân Cộng” hoặc tội “tình nghi chính trị”. Lúc đó nạn nhân “đành nghiến răng, ngậm nước mắt mà đập nhà, bán ruộng, bồng con, tróng chó ra đi, và trở thành tù nhân suốt đường đi cũng như vĩnh viễn tại nơi họ bị đưa đến” dưới sự kìm kẹp trực tiếp của những tên tay sai ác ôn.

Cùng với việc tiến hành lập những khu dinh điền, ở Tây Nguyên, chính quyền Ngô Đình Diệm cũng ráo riết thực hiện âm mưu dồn làng, tập trung đồng bào Thượng, thành lập nhiều “trại” dọc theo các đường giao thông chiến lược và các vùng giáp ranh giữa thượng du và trung du, mục đích là để kiểm soát, khống chế, với âm mưu tách đồng bào Thượng ra khỏi ảnh hưởng của cách mạng.

Trong mỗi khu dinh điền được tổ chức thành nhiều liên gia, mỗi liên gia gồm 5 đến 7 gia đình. Liên gia trưởng chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát những gia đình trong liên gia mình. Những phần tử chống đối hay bị tình nghi có liên quan với cộng sản đều bị theo dõi, bắt giam, tra tấn và thậm chí bị trục xuất ra khỏi liên gia.

Đến cuối năm 1958, đầu năm 1959, trên toàn miền Nam, địch đã lập được 84 khu dinh điền, khai phá được 12.322 ha đất canh tác, bắt 128.374 người vào các khu dinh điền, trong đó có 90.346 người là dân di cư.

– Chính sách “khu trù mật”:

Như trên đã nêu, hầu hết nhân dân bị dồn ép, cưỡng bức vào các khu dinh điền không chịu nổi cuộc sống ở vùng xa xôi, hẻo lánh, nhất là sự o ép, bóc lột kinh tế, truy bức tinh thần căng thẳng, nên đến cuối năm 1958 số người bỏ trốn khỏi các khu dinh điền mỗi ngày một tăng. Trong lúc đó, phong trào cách mạng miền Nam đã từng bước phát triển, đặc biệt là phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nông dân. Tình hình này khiến Mĩ – Diệm nghĩ đến một chính sách mới, có tính chất táo bạo hơn, lâu dài hơn, có thể kết hợp được sự đàn áp bằng bạo lực với sự lừa phỉnh về xã hội và kinh tế, nhằm “bình định” nông thôn, khống chế nhân dân, cô lập phong trào cách mạng ngay ở địa bàn cơ sở. Ngày 7/7/1959, Ngô Đình Diệm phát lệnh lập “khu trù mật”: “Năm nay, tôi đề ra công tác lập khu trù mật tại thôn quê, ở những nơi giao thông tiện lợi, hợp vệ sinh, có những tiện nghi tối thiểu để tập hợp những nông dân lẻ tẻ, thiếu thốn. Những khu trù mật ấy sẽ là những đơn vị kinh tế sau này đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế quốc gia”.

Về mục tiêu của chính sách “khu trù mật”, Ngô Đình Diệm và tay chân cố đánh lừa dư luận rằng “khu trù mật” là đem lại sự thịnh vượng ở nông thôn, góp phần phát triển quốc gia. Trong diễn văn ngày 20/10/1959, Diệm giải thích việc lập khu trù mật như là “khâu tất yếu của chương trình cải tiến nông thôn khi giai đoạn đầu cách mạng, về đại cương, xem như đã thành tựu”. Báo “Cách mạng quốc gia” ngày 8/7/1959 cho rằng: “Hàng bao thế kỷ nay, cái trở ngại chính cho sự phát triển của xã hội Việt Nam, ở miền Bắc, là cái làng đóng kín cửa cổng, co mình trong luỹ tre giữa đồng ruộng; ở miền Nam, là tình trạng cư trú phân tán, ai ở vuông tre mảnh vườn ấy”. Vì vậy, “khu trù mật là thượng sách để san bằng các trở ngại phân tán kia… Có thể nói khu trù mật là một công trình cách mạng đời sống, sẽ mang lại những kết quả lạ lùng không thể lường được”.

Tuy Diệm và tay chân ra sức cổ vũ cho ý nghĩa kinh tế, xã hội của chính sách “khu trù mật”, nhưng cái mục tiêu chính trị – quân sự cốt lõi của nó là “bình định” cho được nông thôn miền Nam đang sục sôi căm phẫn chế độ Diệm thì không thể nào che đạy nổi. Báo “Lẽ sống” ngày 5/3/1960 nói rõ lý do chính trị của khu trù mật: “Những vùng hoang vu hẻo lánh thường là sào huyệt của Việt cộng nằm vùng và phiến loạn; quân đội đến tảo thanh thì chúng trốn lẩn, rút đi, rồi trở lại; bởi vậy, khu trù mật thiết lập ngay tại những vị trí xung yếu để cắt đứt đường giao thông liên lạc của địch, cô lập chúng, đồng thời kiểm soát mọi sự xâm nhập phá hoại…”.

Diệm đặt kỳ vọng rằng “khu trù mật” được xây dựng, thì tất cả các gia đình kháng chiến và tình nghi sẽ bị bao vây chặt chẽ; dựa vào các cuộc “tố cộng”, nhà cầm quyền sẽ bắt hết cán bộ cách mạng nào dám ở trong khu, còn những cán bộ ở ngoài khu, ở trong rừng, không dân, không cơm, thì khác nào “cá ra khỏi nước, cá nằm trên thớt”. Đồng thời, trên cơ sở nhân dân bị kiểm soát chặt chẽ, địch sẽ tiếp tục thực hiện việc bắt lính, bắt phu xây dựng công trình quân sự, lập đồn điền trồng cây công nghiệp khác có lợi cho xuất cảng của chúng. Trên thực tế, khu trù mật là một chương trình bổ sung cho chính sách dinh điền, một kiểu tập trung dân ở những vùng nông thôn có phong trào cách mạng mạnh mẽ và mục tiêu của nó là nhằm “bình định” nông thôn miền Nam đang sôi sục cách mạng.

Để lập “khu trù mật”, chính quyền Ngô Đình Diệm tại các tỉnh, trước tiên chọn một khu đất ở sát một trục giao thông có tính chiến lược, thuận tiện cho mọi cuộc can thiệp quân sự khi cần thiết; hoặc ở những vùng có phong trào nông dân mạnh, những vùng căn cứ kháng chiến cũ. Sau khi chọn được đất, địch dùng bạo lực đàn áp và dồn dân vào những nơi quy định, như dùng quân đội, công an, làng tề cưỡng bách bắt xâu, đuổi nhà, gom dân, phá vườn, thậm chí có nơi cho trâu quần vườn rẫy, kéo sập cửa nhà đồng bào. Chính tên sát nhân Ngô Đình Diệm trong một cuộc kinh lý đã trắng trợn tuyên bố: “Phá nhà, phá vườn rẫy, lấy đất ruộng, bắt xâu không bồi thường cho ai cả”.

Tiếp theo, địch tổ chức “ban trưng dịch” do sĩ quan Nguỵ phụ trách, lo việc hành quân càn quét các ấp, làng thuộc các quận xung quanh, gom dân đưa tới địa điểm; dân phu đi, về, ăn, ở với các phương tiện, của cải của mình, mỗi người làm 10 ngày; ai không đi thì đóng từ 5.000 đến 10.000 đồng. Việc đắp nền, đắp đường, làm rào, xây bốt canh, công sở, chợ theo một kế hoạch có sẵn. Sau đó địch bắt dân của một hoặc hai chục làng dỡ nhà vào đó mà dựng.

Điều cần lưu ý, “khu dinh điền” trước đó, và “khu trù mật” mà chính quyền Diệm đang tiến hành đều nhằm mục đích chống cách mạng, chống nhân dân. Nhưng “khu dinh điền”, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt dân từ xa, từ đồng bằng lên khai khẩn ở vùng hoang vu là chính; còn “khu trù mật”, thì chính quyền Diệm dồn dân nhiều làng kế nhau về một địa điểm, được tổ chức gần như một “thị trấn” nông thôn.

Do yêu cầu cấp bách phải đẩy lùi cộng sản ra khỏi nông thôn miền Nam, biến nông thôn miền Nam thành pháo đài chống cộng, nên việc lập khu trù mật được Mĩ – Diệm tiến hành khẩn trương và nối tiếp nhau. Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Xong khu trù mật này tiến tới khu trù mật khác, cứ làm, làm mãi, làm cho đến khi nào nông thôn trở nên những pháo đài kiên cố của tự do” (17/7/1960).

Do “lập khu mà cốt để lập công” cho nên khối lượng công việc “tăng tốc” mau chóng. Trong vòng chưa đầy 3 tháng cuối năm 1959, ở Nam Bộ, hầu hết các tỉnh, chính quyền Diệm đã khởi công xây dựng 32 “khu trù mật”. Cuối năm 1960, có 26 “khu trù mật” đã được khánh thành rầm rộ, trước sự chứng kiến của quan chức văn võ Mĩ – Diệm và nhiều báo chí tư sản nước ngoài, nhằm đưa lên “tận mây xanh” cái sáng kiến tài ba của Ngô Đình Diệm, trong đó có 11 khu trù mật đích thân Diệm đến dự lễ khánh thành, số còn lại là các quan chức cấp cao của Diệm như Bộ trưởng Bộ Lao động, Bộ trưởng Phủ Tổng thống, Đại biểu Chính phủ miền Tây Nam phần.

Để cưỡng bức nông dân vào khu trù mật với quy trình trên đây, địch đưa lực lượng đến ép từng gia đình dỡ nhà vào sống ở khu tập trung, nếu dân chúng có ý định chống lại thì bị lính xông vào dỡ nhà, triệt hạ các thôn ấp dồn đi. Ở Định Tường (Tiền Giang nay), ngày 2/12/1959, địch cho phá sạch trên 2.000 công vườn, phá 14.000 công lúa, dỡ 800 nhà, đào 1.500 mồ mả. Lập khu trù mật An Biên tỉnh Rạch Giá (Kiên Giang nay), mà nhân dân ở đây gọi là “khu tử địa An Biên”, địch cho phá 50.000 công lúa và rẫy. Ác liệt nhất là những nơi mà chính quyền Ngô Đình Diệm chọn xây dựng “khu trù mật điển hình”, như khu trù mật Thành Thới, địch tập trung 2 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 7 và 2 đại đội địa phương, tiến hành càn quét Thành Thới và các xã xung quanh. Mặt khác, để nông dân không thể chống lại được nữa, chúng hạ lệnh cho lính đốt nhà, chặt cây cối trong vườn, phá hoại lúa ngoài đồng, cướp đi tất cả số thóc tịch thu được. Cả một vùng đất đai phì nhiêu, cây trái xum xuê, phải dọn sạch sẽ để làm khu trù mật. Tổng cộng 240 mẫu vườn dừa, ruộng lúa của 3 ấp An Hoà (xã An Thạnh), Thới Hoà và An Thiện (xã Thành Thới) bị phá thành bình địa trong một thời gian ngắn.

Khu trù mật Vị Thanh – Hoả Lựu, khởi công ngày 3/10/1959, khánh thành sớm nhất vào ngày 12/3/1960. Vị Thanh – Hoả Lựu (tỉnh Phong Dinh), một khu đất được lựa chọn, trung tâm địa lý của miền Hậu Giang, trên chỗ giáp nối nhiều đường thuỷ bộ, chính quyền tỉnh Phong Dinh tổ chức “Ban trưng dịch” do 3 sĩ quan phụ trách, lo việc bắt phu đưa đến địa điểm sắp lập khu trù mật. Dân tráng từ 18 – 45 tuổi trong 4 quận Phụng Hiệp, Ô Môn, Cái Răng, Châu Thành (Cần Thơ), phải đi làm mỗi người 10 ngày, đi về bằng phương tiện của mình, cơm gạo, công cụ tự túc. Dân trong 15 xã sẽ bị dồn về Vị Thanh – Hoả Lựu (khoảng 5 vạn người) cũng bị bắt đi làm. Nhà nào không đi thì đóng 5.000 – 10.000 đồng. Tất cả công chức trong tỉnh đóng mỗi người 3 ngày lương. Dân đi sưu đến đào mương, đắp đường, làm nền, xây dựng các trụ sở, các cơ quan công cộng, làm rào, xây bốt canh, dựng cổng.v.v. Mỗi gia đình nông dân bị dời đến khu trù mật buộc phải lĩnh mấy công đất đã được định đoạt trước, trên đó người nông dân phải tự mình xây dựng nhà cửa theo một số quy tắc khắc nghiệt. Nông dân trong 15 bị ép về Vị Thanh – Hoả Lựu, phải bỏ vườn tược, nhà cửa, mồ mả ông bà. Ai không chịu đi thì chính quyền, quân đội, hay tổ chức chính trị của Diệm đến dỡ, xô sập hoặc đốt cháy để cắt đứt mọi lưu luyến.

Trong mỗi khu trù mật thường được chia làm 3 khu vực: khu tập trung nông dân, khu công thương và khu hành chính; đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của một liên cơ quan gồm cán bộ hành chính địa phương, chuyên viên kiến thiết và các địa diện quân sự, thường là một sĩ quan (có khi là binh chủng đặc biệt, như biệt động quân, có khi là thuộc đơn vị bảo an). Xung quanh khu trù mật được bao bọc bởi nhiều hàng rào, hệ thống hầm hào, công sự, bãi chông và các tháp canh để kiểm tra, kiểm soát dân ra, vào.

Ở khu nông dân, thường phân chia ra làm hai: một là khu dân sự gồm những gia đình mà địch cho là thành phần cơ bản, nghĩa là không có liên hệ gì với cách mạng; hai là khu dành riêng để tập trung các gia đình “thân cộng”, nghĩa là các gia đình có người nhà đi tập kết ra Bắc, hoặc bị tình nghi là cộng sản, khu này bị bao vây chằng chịt bằng hàng rào thép gai và tháp canh. Nếu phân chia theo tiêu chí này thì mỗi khu trù mật gồm có 4 tiểu khu: Tiểu khu hành chính; Tiểu khu công thương; Tiểu khu dân sự; Tiểu khu của các gia đình có liên hệ với cộng sản.

Khách quan mà nói, về cấu trúc trong mỗi khu trù mật, ở những mức độ khác nhau, đều có 3 khu: Khu công ốc, gồm có trụ sở Uỷ ban hành chính, cơ quan quân sự, phòng thông tin, trường học, bệnh xá, nhà bảo sanh, nhà thuỷ tạ, trụ sở nông hội, nhà máy điện; Khu gia cư, với sự phân chia nhân dân như đã đề cập trên, cá biệt vẫn có trường hợp bố trí xen kẽ giữa các gia đình mà chúng tin tưởng và các gia đình “thân cộng”; Khu công cộng, dùng làm sân vận động, giải trí và chăn nuôi gia súc, như trâu bò. Dân số mỗi khu trù mật trung bình 2.000 – 3.000 người; tuy nhiên cũng có những khu trù mật, như Vị Thanh – Hoả Lựu, có gần 25.000 người.

Như vậy, về hình thức, khu trù mật, gần như là một thị trấn, nhưng điều này không thể thuyết phục được nông dân đi theo Diệm. Tờ báo “Người xứ Excốt” của Vương quốc Anh (22/6/1960) cho rằng: “Khu trù mật là những khu hình vuông, có đèn điện, nhà thương, trường học. Những thứ đó được xây dựng bằng sức lao động “tự nguyện” của những người nông dân do quân đội đi bắt một cách độc đoán. Khi một khu trù mật hình thành thì nhà cũ của những người đến khu trù mật bị phá. Nhưng như thế thì hàng ngàn nông dân phải đi hơn 10 dặm đường để làm việc trên vùng đất của họ, để mang trâu bò và dụng cụ đi và về. Cho nên phàn đông số họ không đồng ý với chương trình lập khu trù mật. Việc lập các khu trù mật có thể chống lại hoạt động của cộng sản một cách có hiệu quả là điều đáng nghi ngờ”.

Bị đẩy vào khu trù mật, nông dân chẳng những đi làm rất xa, “những người ở xa nhất là 30 cây số đường thuỷ. Nếu đi bằng thuyền máy phải mất khoảng 2, 3 tiếng đồng hồ”. Hơn thế nữa, khi gặt lúa đập xong, nông dân không được đem lúa về nhà mình, mà phải đem đến “sân chung”; tại đây, nhân viên chính quyền sẽ khấu trừ mọi khoản thuế, tô, tiền quyên góp hàng tháng, tiền mua hình Tổng thống, tiền khẩu hiệu, tiền đóng góp hàng tháng cho các tổ chức phản động…, còn bao nhiêu thì phải gửi vào kho, khi cần thì đến kho mà lấy.

Tuy không phải chịu đày ải nơi rừng thiêng nước độc như ở các khu “dinh điền”, nhưng trong khu trù mật, chính sách kìm kẹp của địch hà khắc và nghiệt ngã hơn nhiều. Ngoài vòng rào và các lô cốt, với sự kìm kẹp của công an, do thám; địch bắt nông dân “đi thưa, về trình, sáng chúng mở cổng mới được đi làm, chiều về chúng đóng cổng lại. Người dân ở trong khu trù mật như trong một khám tù chật hẹp, một gia đình chiếm bề ngang không đầy 4 thước, bề dọc không đầy 10 thước, không có nghề nghiệp, phương tiện làm ăn chỉ còn có cách sống như người nông nô thời thượng cổ hiến thân cho bọn chủ cày máy, chủ thầu của Mĩ – Diệm”*.

Chính sách “khu trù mật” đã gây hậu quả xấu, làm xáo trộn đời sống nông thôn. Nông dân có hàng trăm thứ bất bình, như đi làm xâu không cơm, không công và ngay trong ngày mùa; bỏ vườn, ao, nhà cửa, mồ mả ông bà; đi làm xa, chỉ được đi làm ban ngày; mùa màng đem về bị bắt “gửi”, bắt khấu trừ; nhà mới trơ trọi, thiếu ánh sáng, thiếu bóng mát, thiếu gió, thiếu nước, rau cỏ, hoa quả, cá mắm; ra vào bị kiểm soát, câu thúc; phải đóng góp nhiều thứ về ngày công, về tiền bạc; bị bắt “học tập”, bắt “tố cộng”, bắt canh tuần; bị bắt vào tổ chức phản động của Diệm.v.v. Đỗ Mậu, một nhân vật cao cấp trong chính quyền Ngô Đình Diệm, viết: “Sinh hoạt nông nghiệp vốn có tính định kỳ, theo thời tiết, theo giống lúa, và theo loại đất, cho nên tự ngàn xưa, chính những hoạt động canh tác đã quy định những hoạt động nhân văn khác của thôn xã, như hội hè, đình đám, cưới hỏi, lễ lạc… Chỉ cần làm xáo trộn chu kỳ sinh hoạt này là làm xáo trộn nếp sống của người dân, trên cả hai mặt nghề nghiệp cũng như phong cách”. Nói tóm lại, nông dân mất nhiều tự do, mất nhiều quyền lợi, trái nhiều tập quán, ngược nhiều tình cảm thiêng liêng.

Dư luận trong nước và ngoài nước đều phản đối chính sách dồn dân lập khu trù mật của chính quyền Ngô Đình Diệm, hay ít ra là hoài nghi sự thành công của chính sách đó. Không chỉ nông dân, mà ngay cả các phe nhóm đối lập ở Sài Gòn cũng ra tuyên ngôn công kích chính sách “khu trù mật” của Diệm. “Tuyên ngôn của 18 nhân vật thuộc nhóm Tự do Tiến bộ” gửi Ngô Đình Diệm ngày 26/4/1960, viết: “Hiện nay, nhiều người không có việc để làm, không có nhà để ở và không có tiền bạc. Gạo nhiều nhưng không bán được, các tiệm đầy hàng mà hàng hoá không di chuyển – nguồn lợi nằm trong tay những kẻ đầu cơ, dùng phe nhóm, đoàn thể của chính quyền để che giấu sự buôn bán độc quyền đem lợi về cho một thiểu số tư nhân. Trong lúc đó, hàng ngàn dân bị huy động đi làm việc cực nhọc, bị ép buộc phải rời bỏ công ăn việc làm, nhà cửa, gia đình của mình để tham gia vào công tác xây dựng những khu dinh điền tuy đồ sộ nhưng vô ích. Điều này làm họ mệt mỏi và mất thiện cảm với chính quyền, càng làm cho mối bất mãn thêm trầm trọng và tạo môi trường lí tưởng cho công tác tuyên truyền của địch (CS)” và đòi hỏi “chính quyền phải chấm dứt sự bóc lột con người dưới mọi hình thức trong các công trường lao động của những khu dinh điền”.

Stanley Karnow cho biết về khu trù mật Vị Thanh, một khu trù mật được xem là thành công nhất: “Khi tôi tới gần, khu trù mật Vị Thanh (nơi mà Tổng thống Diệm đã cho khánh thành rầm rộ) trông thật là rộng rãi, đồ sộ khi so sánh với các làng mạc dọc đường. Viên chỉ huy chương trình khu trù mật địa phương, Thiếu tá Trần Cửu Thiên, giới thiệu nào là trường học, nhà thương, trụ điện để đưa điện về cho nông dân lần đầu tiên trong đời họ. Ông ta cũng cho tôi biết là nông dân sẽ có nhiều lợi tức. Ông ta khoe khoang là đã hoàn thành khu trù mật chỉ trong vòng có năm mươi ngày theo lệnh của Tổng thống Diệm, và khu trù mật là một kiến trúc gương mẫu để làm vui lòng những nhà lập pháp Hoa Kỳ đến viếng Việt Nam. Nhưng trong thực tế lại là một đại hoạ.

Đại hoạ là vì nông dân bị bắt buộc phải bỏ làng mạc cũ, bỏ cả mồ mả cha ông, bỏ cả tập tục cổ truyền để tập trung về Khu. Tai hại hơn nữa là Thiếu tá Thiên đã phải theo lệnh Tổng thống huy động 20 ngàn người để xây dựng một khu chỉ để cho 6 ngàn người ở. Số 14 ngàn người kia phải bỏ công việc đồng áng để làm việc mà không được trả tiền công. Thiên bảo rằng, bắt họ làm công không trả tiền là để tập cho họ bổn phận công dân. Trái lại, đối với nông dân thì những công tác cộng đồng như thế là hình thức “cưỡng bách lao động” nên dù lúc đó họ chưa theo Việt cộng họ cũng đã tỏ ra bất mãn với chế độ Diệm”.

Và theo Frances Fizgerald, dưới chế độ Diệm, “Tất cả các công tác,… như khu trù mật, như dinh điền, như hợp tác xã nông nghiệp…đều thất bại nặng nề”.

Theo Đỗ Mậu, “tất cả mọi sản phẩm lý thuyết của chế độ (Diệm), phần kế hoạch và những biểu hiện hình thức bao giờ cũng bắt đầu rất đẹp và quyến rũ. Nhưng trên thực tế, dù chương trình này do chính vị Tổng thống điều động và theo dõi kiểm soát từng chi tiết một, kết quả vẫn trở nên bi thảm. Sự thất bại bi thảm của nó, ngoài những lý do dễ hiểu, là không nghiên cứu kỹ càng để đi sát với thực tế, là chuộng hình thức, nặng về lượng hơn là về phẩm, là cán bộ thừa hành lo hối hả trồng cây hôm nay để ngày mai Tổng thống đi kinh lý khen thưởng hơn là thực sự phát triển chậm nhưng chắc,… Còn có một lý do khác là sự can thiệp quá độ của ông Diệm, người đích thân điều khiển chương trình một cách độc đoán mà lại không đủ hoặc không lưu tâm đến những kiến thức chuyên môn cần thiết cho một chương trình bao gồm cả bốn lãnh vực nông nghiệp, xã hội, quốc phòng và nhân tâm”.

Sự thất bại của chính sách “Khu trù mật” của chính quyền Ngô Đình Diệm như những lý giải của Đỗ Mậu không phải là không có cơ sở. Nhưng cần phải thấy rằng, sự thất bại của chính sách này chủ yếu là do phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam trên nhiều mặt, trong đó có phong trào đấu tranh của nông dân chống “khu trù mật” diễn ra trên cả hai mặt trận chính trị và quân sự.

Các chính sách trên đây của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với nông dân là nguyên nhân làm cho năng suất trong nông nghiệp giảm sút rõ rệt. Trước Chiến tranh thế giới thứ II (1939), tổng sản lượng lúa là 4 triệu tấn, đạt bình quân 500kg/người. Từ năm 1955, tổng sản lượng lúa chỉ đạt từ 2,7 triệu đến 3,1 triệu tấn; bình quân đầu người chỉ đạt từ 240kg – 280kg.

– Chính sách công thương nghiệp:

Trong công thương nghiệp, Mĩ – Diệm âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành một thuộc địa bóc lột về kinh tế của Mĩ. Hiệp định kí ngày 20 và 26/8/1954 cho phép hàng hoá ứ đọng của Mĩ và các nước thuộc phe Mĩ tự do, được miền thuế quan và mọi khoản thuế nội địa vào miền Nam dưới chiêu bài “viện trợ”, “thương mại hoá”. Mĩ – Diệm còn tách đồng tiền miền Nam khỏi khu vực đồng Phơ-răng để phụ thuộc vào đồng Đô la, với tỷ suất hối đoái ban đầu là 1 đô la bằng 35 đồng, sau tăng lên 75 đồng.

Mặt khác, chính quyền Ngô Đình Diệm còn dùng nhiều thủ đoạn nhằm kìm hãm sự phát triển công thương nghiệp dân tộc, như không cấp vốn kinh doanh, tăng thuế; làm cho hàng trong nước không cạnh tranh nổi với hàng nhập khẩu. Hậu quả là kinh tế công thương nghiệp miền Nam chỉ đóng vai trò tiêu thụ hàng hoá của Mĩ và phe Mĩ.

Những chính sách nói trên đã tạo điều kiện cho Mĩ đưa hàng hoá vào miền Nam, trong đó nông phẩm thừa chiếm một tỷ lệ khá lớn. Nếu như năm 1954, Pháp đứng thứ nhất trong các nước xuất khẩu sang miền Nam với tỷ lệ 75% tổng số hàng hoá nhập khẩu của miền Nam, còn Mĩ chỉ được 7,6%; thì đến năm 1959, Pháp chỉ còn 19,4%, ngược lại Mĩ vượt lên chiếm vị trí thứ nhất, với tỷ lệ 26%.

Với sự giúp sức và cố vấn tích cực của Mĩ, đến cuối năm 1956, chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam tạm thời đứng vững. Đế quốc Mĩ cho rằng chẳng bao lâu nữa chúng có thể biến miền Nam Việt Nam trở thành “tủ hàng mẫu” của thế giới tự do có sức hấp dẫn mạnh mẽ các dân tộc đi theo. Cũng lúc này, Mĩ tuyên bố công khai mục đích sâu xa mà Mĩ đang thực hiện ở miền Nam Việt Nam là “giúp đỡ nước Việt Nam tự do phát triển một chính phủ hợp hiến ổn định và hùng mạnh để có thể khẳng định sự tương phản ngày càng hấp dẫn so với các điều kiện trong khu vực hiện nay của cộng sản, tiến tới làm suy yếu cộng sản miền Bắc cũng như miền Nam Việt Nam để cuối cùng đi đến thống nhất bằng phương pháp hoà bình một nước tự do và độc lập dưới sự lãnh đạo chống cộng sản”.

Chính sách của Mĩ – Diệm trên tất cả các mặt: tư tưởng – chính trị, kinh tế – xã hội và văn hoá – giáo dục cho thấy Mĩ – Diệm đã thực hiện cuộc “chiến tranh một phía” chống nhân dân miền Nam, đã động chạm đến đại bộ phận nhân dân miền Nam. Mĩ – Diệm đã trở thành kẻ thù trực tiếp không chỉ đối với nhân dân miền Nam mà đối với toàn thể dân tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, trước hết là nhân dân miền Nam, chống Mĩ – Diệm tất yếu sẽ diễn ra.

2. Đấu tranh chống chế độ Mỹ – Diệm, gìn giữ và xây dựng lực lượng (1954 – 1959).

a) Đấu tranh chống Mĩ – Diệm những năm sau Hiệp định Giơnevơ (1954 – 1956)

Sau Hiệp định Giơnevơ, quân đội và cán bộ của ta tập kết ra miền Bắc, vì thế so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng ở miền Nam bất lợi cho ta. Được sự chỉ đạo của Mĩ, ngay khi hoà bình vừa được lập lại, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tiến hành phá hoại Hiệp định Giơnevơ.

Trước lúc Hiệp định được kí kết, TW Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đoán tình hình sẽ hết sức khó khăn và phức tạp đối với cách mạng Việt Nam. Báo cáo tại HNTW lần thứ 6 (7/1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tranh lấy hoà bình không phải là việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ và phức tạp, nó có những điều kiện thuận lợi, cũng có những khó khăn”. Nắm bắt được Mĩ là trở lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương, và đang trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Đông Dương, TW Đảng đề ra cho cách mạng miền Nam nhiệm vụ chuyển cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp sang đấu tranh chính trị chống Mĩ – Diệm, đòi hoà bình, gìn giữ và xây dựng lực lượng cách mạng. Nghị quyết HNBCHTW Đảng lần thứ 6 nhận định: “Ngày nay, do tình hình mới, tat hay đổi phương châm, chính sách và sách lược đấu tranh cốt để thực hiện một cách thuận lợi trước mắt. Đây là một sự thay đổi quan trọng về phương châm và sách lược cách mạng, nhưng còn mục đích cách mạng vẫn là một”.

Ngày 6/9/1954, Bộ Chính trị BCHTW Đảng họp đã cụ thể hoá và bổ sung thêm tinh thần Hội nghị TW lần thứ 6 nêu trên. Hội nghị chỉ rõ: “Nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam trong giai đoạn hiện tại là lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hoà bình, thực hiện tự do dân chủ (tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do đi lại, .v.v.), cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành động tiến công của địch, nguỵ, giữ lấy quyền lợi của quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta”.

* “Phong trào Hoà Bình”:

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương, nhân dân khắp nơi ở miền Nam đã tổ chức những hoạt động nhằm biểu thị tinh thần phấn khởi trước thắng lợi to lớn của dân tộc và ý chí đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất đất nước. Ngày 1/8/1954, nhân dân các thành phố Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng biểu tình, hoan nghênh thắng lợi của cuộc kháng chiến; đòi Pháp phải trả chồng, con đã bị bắt đi lính; trả tự do cho tất cả tù chính trị và trao trả tù binh. Số người tham gia biểu tình ở Sài Gòn là 50.000 người, phần đông là công nhân nhà đèn, bến cảng và các tầng lớp tiểu thương, trí thức, học sinh, quần chúng lao động. Tại Đà Nẵng, có 25.000 người, Huế có 15.000 người tham gia biểu tình mừng hoà bình. Chị em tiểu thương chợ Đông Ba đã thả hàng ngàn bồ câu bày tỏ sự phấn chấn và khát vọng hoà bình của mình, hàng vạn bản văn Hiệp định Giơnevơ được in ra và phổ biến trong nhân dân thành phố và các huyện.

Cũng trong ngày 1/8/1954, được sự chỉ đạo của Khu uỷ Sài Gòn – Chợ Lớn, các đại biểu trí thức và lao động thành phố đã thành lập “Phong trào hoà bình Sài Gòn – Chợ Lớn” ra tuyên bố nêu rõ tôn chỉ, mục đích của phong trào là đấu tranh cho hoà bình ở Đông Dương được củng cố, quyền tự do dân chủ được đảm bảo, nước Việt Nam được thống nhất bằng tuyển cử tự do trong cả nước. Phong trào thu hút nhiều trí thức tên tuổi nổi tiếng tham gia, như luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo; giáo sư Phạm Huy Thông, Nguyễn Văn Dưỡng; nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba; bác sĩ Lê Khắc Quyến, dược sĩ Trần Kim Quang; nhân sĩ Võ Đình Cường… Lực lượng công nhân, thợ thuyền các xí nghiệp ấn loát, các xí nghiệp hậu cần của Pháp, công ty thuỷ điện và quần chúng khu lao động Bàn Cờ, Khánh Hội, cầu Ông Lãnh, Chợ Quán, Bình Tây đã tham gia tích cực phong trào. Tập san “Hoà Bình”, cơ quan ngôn luận hợp pháp của phong trào đăng các bài tố cáo Mĩ – Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ và nêu rõ khát vọng hoà bình của dân tộc. Từ Sài Gòn, phong trào lan rộng ra Đà Nẵng và Huế.

Tại Huế, “Phong trào Hoà Bình” có nhiều hoạt động phong phú. “Tập Văn ngày mai”, cơ quan ngôn luận của phong trào, đăng các bài có nội dung tuyên truyền chủ trương hoà bình của Đảng, chống khủng bố, bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp nhân dân, đề cập đến nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, được quần chúng hoan nghênh đón nhận. Mặt khác, phong trào còn có nhiều hình thức hoạt động, như tổ chức cứu đói, chống đói, xoá nạn mù chữ. Ở Huế, nhân dân thành phố đã đưa lương thực, thực phẩm về các huyện giúp nhân dân khắc phục nạn đói và tổ chức sản xuất. Ban Bình dân học vụ gồm một số phụ lão, trí thức, giáo viên thành phố đã về phát triển lớp học ở các huyện. Ngoài việc dạy chữ, mở mang dân trí, các Ban Bình dân học vụ đã dựa vào lớp học để vận động nhân dân đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi Hiệp thương Tổng tuyển cử, chống khủng bố, đòi dân sinh, dân chủ.

Cùng với “Phong trào hoà bình”, tù nhân chính trị ở Huế đấu tranh đòi chính quyền Ngô Đình Diệm trao trả họ về với Chính phủ VNDCCH. Tờ cam kết của tù chính trị gửi chính quyền Ngô Đinh Diệm với nội dung: “Chúng tôi kí tên dưới đây là can cứu chính trị bị bắt trước ngày ngưng bắn, và hiện đang bị giam giữ tại Lao Xá Thừa Thiên.

Chúng tôi sẵn sàng đi trao trả cho Chính phủ VNDCCH theo Hiệp định Giơnevơ và Quy chế Trung Giã ấn định”.

Địch buộc phải nhượng bộ, ngày 28/8/1954, chúng dùng 20 xe GMC chở tù chính trị từ lao Toà Khâm lên ga Huế để đưa đi Đà Nẵng thực hiện việc trao trả. Khi xe chạy qua một số đường trong thành phố, anh em tù chính trị đã hô vang các khẩu hiệu, như “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm”, “Hoà bình dân chủ thế giới muôn năm”, “Việt Nam độc lập dân chủ thống nhất muôn năm”; riêng khẩu hiệu “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm” được viết và căng trên một số xe.

Lo sợ trước sự phát triển của phong trào, từ đầu tháng 11/1954, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu tiến hành đàn áp, bắt giam một số người lãnh đạo và các chiến sĩ tích cực của phong trào. Giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng bị địch tra tấn đến chết; luật sư Nguyễn Hữu Thọ và một số người khác bị địch đưa ra giam lỏng ở Tuy Hoà. Rất nhiều kháng thư của trí thức, sinh viên, các nhà công thương đòi Ngô Đình Diệm phải trao trả những người bị bắt.

Đến giữa tháng 5/1955, tuy về danh nghĩa, “Phong trào Hoà Bình” ở Sài Gòn – Chợ Lớn không còn, nhưng các “Uỷ ban bảo vệ hoà bình” ở các cơ sở vẫn hoạt động dưới hình thức những “Uỷ ban cứu tế” nạn nhân hoả hoạn. Địch tiếp tục khủng bố, “Uỷ ban cứu tế” nạn nhân hoả hoạn đổi thành những “Ban đề phòng nạn cháy” và tiếp tục hoạt động.

* Phong trào công nhân:

Tại Sài Gòn, từ ngày 7 – 17/12/1954, công nhân trong 51 xưởng thuộc các hãng nhà binh Pháp ở Sài Gòn – Chợ Lớn, Gia Định, Thủ Dầu Một và Biên Hoà, gồm 25.000 người, liên tục bãi công. Công nhân đã nêu cao các khẩu hiệu: tăng lương 20%, giảm giá sinh hoạt, thi hành Hiệp định Giơnevơ. Chủ hãng buộc phải thoả mãn một số yêu sách của công nhân. Tại đồn điền cao su An Lộc, 5.000 công nhân bãi công liên tiếp trong 3 ngày (2 – 4/8/1954) đòi tăng lương 4% và hoan nghênh Hiệp định Giơnevơ.

Ngày 10/11/1955, hơn 4 vạn công nhân các đồn điền cao su 4 tỉnh Bà Rịa, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh bãi công. Công nhân đưa 10 yêu sách đòi chủ phải tăng lương, cải thiện chế độ ăn ở, làm việc và đảm bảo quyền tự do nghiệp đoàn của công nhân. Đây là cuộc bãi công lớn nhất của công nhân cao su từ trước tới nay, kéo dài một tuần, làm công ty cao su thiệt hại mỗi ngày khoảng 40 vạn đô la.

Ở Huế, cuộc đấu tranh của công nhân thuỷ điện kéo dài trong tháng 3 & 4/1956, đòi giới chủ không được sa thải công nhân và trả phụ cấp gia đình cho thư kí và các hạng thợ chuyên môn. Cuộc đấu tranh của công nhân ngành thủy điện Huế đã gây một tác động lớn đối với công nhân ngành thuỷ điện ở hầu hết các tỉnh miền Trung, có khả năng lôi kéo họ nhập cuộc tham gia đấu tranh nếu Công ty thuỷ điện Huế không chịu giải quyết yêu sách của công nhân. Chính tài liệu của địch thừa nhận: “Vụ cộng đồng phân tranh nhà đèn Huế hiện do Hội đồng trọng tài xét xử… Hiện Toà Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt cũng tìm cách dàn xếp. Có thể có sự đình công tại Huế và công nhân nhà đèn Quảng Trị, Hội An, Đà Nẵng, Nhà Trang và Phan Rang sẽ có thể đình công hưởng ứng theo”… Riêng ở Đà Nẵng, để đối phó với cuộc đình công của công nhân, chính quyền Ngô Đình Diệm đã “chỉ thị cho ba cơ quan Công an, Cảnh sát và Bảo an đoàn phối hợp công tác, tăng cường việc canh phòng trong đô thị để đề phòng mọi âm mưu phá hoại của đối phương, để bảo vệ tính mạng và tài sản, nhất là của ngoại kiều, phân công phụ trách bảo vệ ngày đêm 13 nhà máy chứa điện, Thị đoàn Bảo an sẽ phái thêm binh sĩ tăng cường việc đề phòng, bảo vệ nhà máy”.

Ngày 26/3/1956, công nhân nhà máy đèn Chợ Quán bãi công đòi tăng lương. Ngót 200.000 công nhân, lao động, các tầng lớp nhân dân khác hưởng ứng cuộc đấu tranh. Cuộc bãi công kéo dài 2 ngày làm các thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hoà không có điện, nước, mọi hoạt động công nghiệp đình đốn; các rạp hát, rạp chiếu bóng phải đóng cửa; 6 tờ báo hàng ngày không ra được; đài phát thanh phải ngừng phát 48 tiếng đồng hồ.v.v. Trước tình hình đó, chính quyền Diệm buộc phải giải quyết một số yêu sách của công nhân.

Nổi bật nhất trong phong trào đấu tranh của công nhân ngành thuỷ điện là cuộc đấu tranh đòi tăng lương và đòi nghỉ ngày chủ nhật phải có lương của công nhân thuỷ điện Sài Gòn diễn ra trong tháng 8/1956 và kéo dài đến tháng 5/1957. Suốt hai tháng 9 & 10/1956, Thanh tra Lao động chính quyền Sài Gòn đứng ra hoà giải nhưng không thành. Vụ việc buộc phải đưa ra Hội đồng trọng tài. Ngày 2/1/1957, Hội đồng trọng tài ra quyết định bác bỏ yêu sách của công nhân. Do vậy công nhân tiếp tục đệ đơn lên chính quyền Sài Gòn. Ngày 8/5/1957, công nhân tổ chức hội nghị và quyết định sẽ đình công nếu đòi tăng lương không được chính quyền Sài Gòn chấp nhận. Trước tình hình đó, tháng 5/1957, Hội đồng Liên Bộ của chính quyền Sài Gòn buộc phải đồng ý trả lương ngày chủ nhật và buộc giám đốc công ty thuỷ điện Sài Gòn phải tăng bình quân 6% lương cho công nhân.

Ngày 1/5/1956, lợi dụng việc Diệm “cho phép” tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, 20 vạn nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn, đa số là công nhân, những người lao động, đã xuống đường biểu tình, hô vang các khẩu hiệu: tự do nghiệp đoàn, giải quyết nạn thất nghiệp, trả phụ cấp gia đình cho cả công nhân làm ở các sở tư, cải cách điền địa triệt để để có lợi cho nông dân, hạn chế nhập khẩu để nâng đỡ công nghiệp trong nước, thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình.v.v.

* Phong trào nông dân:

Phong trào đấu tranh của nông dân miền Nam bảo vệ quyền lợi về ruộng đất diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ. Ở Thừa Thiên – Huế, phong trào đấu tranh đòi đắp đập Thuận An diễn ra gần như đều khắp các huyện trong tỉnh, thu hút hàng vạn người tham gia. Chỉ trong một thời gian ngắn từ tháng 12/1954 đến tháng 1/1955, đã có hàng trăm lá đơn với 7 vạn chữ ký của nhân dân các xã, làng, vạn, giáp, xóm gửi chính quyền Ngô Đình Diệm tại Thừa Thiên – Huế, yêu cầu đắp đập Thuận An chống nước mặn xâm nhập gây đói khổ cho nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở địa phương, những lá đơn được ký với đầy đủ thành phần của các làng, xã; không chỉ chức sắc, hào lão, đại diện các họ tộc, mà cả đại diện từng hộ gia đình, cả nam lẫn nữ, và có cả những người trong bộ máy chính quyền địch ở xã, thôn liên tiếp gửi tới nguỵ quyền. Ngày 1/5/1955, 3 vạn người từ các huyện kéo về Huế tham dự cuộc biểu tình tại Phu Văn Lâu. Đoàn biểu tình đã giương cao khẩu hiệu: “Phải đắp đập Thuận An ngăn nước mặn để đảm bảo dân gia tăng sản xuất”, cùng với những khẩu hiệu khác đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống khủng bố, đòi thiết lập quan hệ Bắc – Nam.v.v. Phong trào được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân thành phố và các huyện. Ngô Đình Diệm đã phải về tận nơi xem xét và hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề đắp đập.

Ở khu V và Trị – Thiên, có phong trào chống “xáo cấp” công điền. Đặc biệt ở Trị – Thiên, nơi ruộng đất công chiếm 70 – 80% tổng số diện tích ruộng đất toàn tỉnh, cuộc đấu tranh diễn ra rất mạnh mẽ. Nông dân không chịu cày cấy trên ruộng đất do địch chia. Sau 3 tháng tiến hành “xáo cấp” công điền ở 731 thôn thuộc hai tỉnh Trị – Thiên, địch chỉ thực hiện được ở 21 thôn. Ở Bình Định, Quảng Ngãi có phong trào chống cướp ruộng công của các gia đình có người tập kết.

Ở Nam Bộ, ngày 4/12/1954, hơn 1 vạn nông dân thuộc 6 xã huyện Mỏ Cày (Bến Tre) biểu tình chống chính quyền Ngô Đình Diệm sát hại những người kháng chiến. Tại Trung Bộ, những cuộc đấu tranh chống Mĩ – Diệm liên tiếp diễn ra ở khắp các thành thị và nông thôn. Nhân dân Quảng Nam, các thành phố, thị xã Nha Trang, Đà Lạt, Phan Thiết,… biểu tình kéo đến trụ sở Nguỵ quyền, trụ sở Uỷ ban Quốc tế đòi địch phải thi hành đúng các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ, không được trả thù, khủng bố những người kháng chiến cũ.

Trong năm 1956, các cuộc đấu tranh chống địch đuổi dân để lập khu căn cứ quân sự liên tục diễn ra. Ngày 28/11/1956, địch cho lính và xe ủi đất về 2 làng Đông Hưng Thạnh và Trung Mĩ Tây (Hóc Môn) để xây dựng “Trung tâm huấn luyện Quang Trung”. Địch ra lệnh cho nhân dân 2 làng này phải rời đi nơi khác. Đồng bào kiên quyết đấu tranh chống lại với khẩu hiệu: “Sống tại chỗ, chết tại chỗ! Tấc đất, tấc máu!”. Nhân dân đã cử nhiều đoàn đại biểu lên quận, tỉnh đòi được ở nguyên chỗ cũ, đòi bồi thường những tài sản bị phá. Tiếp theo, ngày 4/12/1956, 10 vạn nhân dân khu lao động Vân Đồn, Chương Dương đấu tranh chống lệnh đuổi nhà. Đồng bào các quận khác đã tích cực hưởng ứng bằng việc xuống đường đấu tranh đòi địch phải bồi thường những thiệt hại. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống địch đuổi nhà, cướp ruộng diễn ra liên tục, làm chậm lại kế hoạch xây dựng căn cứ quân sự của địch.

* Phong trào đấu tranh chống Mĩ – Diệm “tố cộng”:

Giữa năm 1955, Mĩ – Diệm triển khai chiến dịch “tố cộng” giai đoạn I, nhân dân miền Nam dưới nhiều hình thức công khai, hợp pháp và cả bất hợp pháp đã liên tục đấu tranh chống địch. Địch bắt người đi học tập “tố cộng”, đồng bào viện đủ lý do trì hoãn, không đi. Ở Phú Vang (Thừa Thiên – Huế), địch cho lính nguỵ đến bắt 300 người đến lớp học. Đồng bào kiên quyết đấu tranh đòi trở về nhà sản xuất, nếu không để ruộng đồng bỏ hoang, mất mùa, dân đói. Địch buộc phải giải tán lớp học.

Ở Phan Rí (Bình Thuận), khi tên Quận trưởng cho nhân dân được tự do tranh luận những cái xấu và cái tốt của quốc gia và cộng sản, ông Bộ Gạch người dân tộc Chăm đã đứng lên nói:

+ Quốc gia có 9 cái tốt và 1 cái xấu, cộng sản có 9 cái xấu và 1 cái tốt.

+ Tên Quận trưởng liền hỏi: 1 cái xấu của quốc gia là gì?

+ Quốc gia ở với dân xấu quá.

+ Tên Quận trưởng bực dọc nói: Thế một cái tốt của cộng sản là gì?

+ Ông già thản nhiên trả lời: Việt cộng ăn ở với dân quá tốt. Các ông có làm gì đi nữa, lòng dân vẫn theo Việt cộng và cuối cùng Việt cộng vẫn thắng.

Ở nhiều địa phương, khi địch cho những tên đầu hàng, đầu thú lên nói xấu cộng sản, lập tức bị nhân dân chất vấn và phản đối, biến cuộc “tố cộng” thành cuộc đấu tranh tố cáo tội ác của Mĩ – Diệm. Nhân dân đặt nhiều câu hỏi chất vấn đối với những tên chỉ đạo “tố cộng”: “Quốc gia nói cộng sản cướp công kháng chiến, nhưng lúc đánh Tây, quốc gia ở đâu, sao toàn thấy cộng sản?”, “Nói quốc gia kháng chiến, tại sao lại làm cho Tây?”.v.v. Những chất vấn làm “cán bộ tố cộng” bí không trả lời được, nhiều lần phải giải tán lớp học. Chính Chủ tịch Hội đồng chỉ đạo tố cộng trung ương Mĩ – Diệm đã thú nhận: “Đây là một thất bại lớn vì phong trào chất vấn rộng rãi, hướng dẫn viên của chúng ta không giải quyết được”.

Trong đợt II của chiến dịch “tố cộng”, địch dùng một lực lượng lớn càn quét liên tục, dài ngày để triệt phá các thôn xóm mà chúng nghi là có cộng sản. Sau đó, chúng chia lực lượng thành những bộ phận nhỏ chà đi xát lại nhiều lần. Tuy vậy, đồng bào miền Nam đã trải qua đấu tranh quyết liệt với địch, hiểu rõ bản chất của chúng nên đã kiên trì tiếp tục cuộc đấu tranh. Tháng 7/1957, các chi bộ bí mật ở Hương Trà (Thừa Thiên) đã móc nối, liên kết với nhau, tổ chức các cuộc biểu tình tại quận lỵ với gần 2.000 người tham gia, phản đối Mĩ – Diệm bắt dân “tố cộng” và đàn áp những người vô tội. Quần chúng tham gia biểu tình đòi chính quyền Nguỵ ở Thừa Thiên – Huế phải bồi thường tính mạng, tài sản cho những gia đình bị hại.

Ở Tây Ninh, tháng 10/1957, dưới sự tổ chức của Tỉnh uỷ, các cuộc đấu tranh chống địch diễn ra trên một quy mô lớn. Nhân dân các xã Gia Lộc, An Tịnh, Lộc Hưng, Gia Bình, Đơn Thuận, Thạnh Phước, Phước Thanh, Hiệp Thạnh, Thanh Đức đã tập hợp kéo lên dinh Quận trưởng Trảng Bàng, Gò Dầu đấu tranh đòi Nguỵ quyền địa phương không cho binh lính hành quân càn quét, dồn dân “tố cộng”. Nhân dân các xã Trí Bình, Thái Bình, Thanh Điền cùng kéo vào thị xã Tây Ninh, phản đối việc dồn dân vào trại tập trung, bắt giam và đánh đập tàn nhẫn những người vô tội và yêu cầu Mĩ – Diệm bỏ ngay thủ đoạn bắt người “sám hối”.

Trong máu lửa “tố cộng, diệt cộng” của địch, nhiều đảng viên dũng cảm hy sinh, vượt qua tra tấn, tù đày của địch, tạo nên biểu tượng sáng ngời về ý chí bất khuất, lòng dạ kiên trung của người cộng sản, người Việt Nam yêu nước. Đồng chí Nguyễn Đình Liệu, nguyên Chủ tịch huyện Tiên Phước (Quảng Nam) tự tay mổ bụng, lôi ruột gan ra trước mặt quân thù khi chúng buộc đồng chí phải đầu thú; đồng chí Hồ Khởi, Bí thư chi bộ xã Quảng Ninh (Thừa Thiên – Huế), trước giờ phút hy sinh đã nói to với đồng bào, đồng chí lời cuối cùng: “Chúng tôi, những người cộng sản, không bao giờ quên lời thề khi vào Đảng, lời thề với Hồ Chủ tịch”; mẹ Trần Thị Kế ở Giồng Trôm (Bến Tre), địch bắt tra tấn buộc phải khai báo chồng con và chỉ chỗ ở của cán bộ, mẹ đã hét vào mặt kẻ thù: “Cán bộ, chồng con tao trong trái tim tao, bay có kiếm, mổ ra mà tìm”; đồng chí Võ Tấn Nhất, Bí thư Tỉnh uỷ Bến Tre, bị địch bắt, tra tấn dã man, đóng đinh vào các đốt xương tay, nhốt vào hầm bỏ đói cho đến chết; đồng chí Nguyễn Hữu Châu lãnh đạo phong trào cách mạng ở Tuy Hoà bị địch bắt đưa đến địa điểm “tố cộng” buộc xé cờ Đảng và ảnh Hồ Chủ tịch trước nhân dân và tuyên bố ly khai Đảng, nhưng người cộng sản đó đã kêu gọi đồng bào đoàn kết đấu tranh, địch đã xả súng bắn chết anh tại chỗ.v.v.

* Phong trào đấu tranh chống “trưng cầu dân ý”, chống “bầu cử quốc hội” của Mĩ – Diệm:

Ngày 6/6/1955, Chính phủ nước VNDCCH ra tuyên bố nêu rõ: “Nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một khối thống nhất về mọi mặt lịch sử, địa lý, kinh tế, văn hoá, ngôn ngữ, phong tục” và tuyên bố: “Sẵn sàng mở Hội nghị Hiệp thương với những nhà đương cục có thẩm quyền ở miền Nam bắt đầu từ ngày 20/7/1955 để bàn về vấn đề tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc vào tháng 7/1956”. Tuyên bố này của Chính phủ VNDCCH đã được sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp nhân dân trong cả nước, làm dấy lên phong trào đấu tranh đòi chính quyền Ngô Đình Diệm phải Hiệp thương với Chính phủ VNDCCH.

Từ giữa năm 1955, càng gần đến ngày Hiệp thương Tổng tuyển cử theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, phong trào đấu tranh của quần chúng càng trở nên sôi nổi. Khắp miền Nam, nhân dân tổ chức mít tinh, biểu tình, bãi công, bãi khoá, bãi chợ, rải truyền đơn, đưa kiến nghị đòi Mĩ – Diệm thi hành Hiệp định. Trước sự đòi hỏi của Chính phủ nước VNDCCH và sự đấu tranh sôi nổi của nhân dân miền Nam, ngày 16/7/1955, Ngô Đình Diệm buộc phải tuyên bố: “Không gạt bỏ nguyên tắc tuyển cử, coi như một phương tiện dân chủ cộng hoà thích đáng để thực hiện thống nhất” nhưng Diệm vẫn ngoan cố phủ nhận Hiệp định và tự cho là “không thể bị ràng buộc bởi hiệp định đó”.

Tiếp theo, ngày 23/10/1955, Mĩ – Diệm tổ chức cuộc “trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại, đưa Diệm lên làm Tổng thống. Ở nhiều tỉnh, nhiều thành phố, nhiều xã, nhân dân tổ chức mít tinh, biểu tình, vạch trần tính chất phản động, bịp bợm của trò hề “trưng cầu dân ý”. Mặc dù địch dùng mọi biện pháp lùng bắt người đi “bỏ phiếu”, nhưng nhân dân vẫn tẩy chay cuộc trưng cầu bằng nhiều hình thức, như không ghi tên vào danh sách cử tri, không đi bỏ phiếu, đập phá, đốt thùng phiếu, hoặc giả vờ đánh nhau, cho trẻ em khóc ở nơi bỏ phiếu.v.v. Khi địch bắt nhân dân phải bỏ phiếu cho Diệm, “Phiếu xanh bỏ giỏ, phiếu đỏ bỏ bì”, nhân dân phản đối bằng cách gạch nát hình Ngô Đình Diệm. Ở Hội An, binh lính Diệm đã bắn vào đoàn biểu tình làm 5 người chết, 4 người bị thương, và bắt đi 200 người. Ở Cần Giuộc (Chợ Lớn), Hồng Ngự (An Giang), Minh Thành (Tây Ninh) có hàng ngàn người bị bắt. Ở Sài Gòn – Chợ Lớn, trên 50% số cử tri không đi bầu, 80% áp phích của địch bị xé bỏ.

Phong trào đấu tranh chống “trưng cầu dân ý” đã nâng cao ý thức của nhân dân rằng không chỉ chống việc thay thế chính quyền bù nhìn Bảo Đại bằng chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm mà phải phản đối tất cả các loại chính quyền bù nhìn tay sai thực dân đế quốc.

Sau thủ đoạn “trưng cầu dân ý”, để hợp pháp hoá việc tự đặt mình lên ngôi Tổng thống, ngày 4/3/1956, Diệm lại lợi dụng địa vị mới của mình, tổ chức bầu cử quốc hội “Việt Nam cộng hoà” nhằm hợp thức hoá chế độ Diệm trước dư luận trong nước và thế giới. Ngày 14/2/1956 Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho hai Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ, vạch rõ: “Chính quyền miền Nam Việt Nam đang chuẩn bị tổng tuyển cử riêng rẽ nhằm mục đích rõ rệt là thành lập một nước riêng biệt ở miền Nam Việt Nam. Điều đó hoàn toàn trái người lời văn và tinh thần của Hiệp định Giơnevơ…”.

Dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương, quần chúng nhân dân đã tích cực chống lại bằng nhiều hình thức, như phá các buổi học tập, phá các buổi mít tinh tuyên truyền cho cuộc “bầu cử”, xé gỡ áp phích, truyền đơn của địch; rải truyền đơn, viết khẩu hiệu chống bầu cử riêng rẽ, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ. Nhiều nơi nhân dân tẩy chay không đi bỏ phiếu, có nơi truyền đơn chống Diệm được nhét đầy thùng phiếu, có nơi hòm phiếu bị đập nát. Chẳng những nhân dân lao động và những người yêu nước chống cuộc “bầu cử” của Diệm, mà cả những tổ chức và cá nhân thân Pháp, thân Mĩ, trong đó có những người trước đây ủng hộ Diệm, cũng kịch liệt chống lại hành động gian lận, độc đoán của Diệm.

Với cuộc “bầu cử quốc hội” (4/3/1956), Ngô Đình Diệm đã tiến thêm 1 bước trong việc thực hiện âm mưu của đế quốc Mĩ nhằm phá hoại Hiệp định Giơnevơ, phá hoại sự nghiệp hoà bình, thống nhất đất nước của nhân dân ta, phơi bày rõ thêm bộ mặt độc tài gia đình trị của Diệm. Những thủ đoạn xảo quyệt của Diệm đã không lừa bịp được ai. Dư luận đã vạch ra rằng, cuộc “bầu cử” này cũng là một trò lừa bịp như cuộc “trưng cầu dân ý” và số người đi bỏ phiếu trong cuộc “bầu cử” này còn ít hơn nhiều.

* Phong trào đấu tranh của đồng bào di cư:

Ngoài các phong trào đấu tranh chính trị kể trên, từ năm 1954 đến năm 1956, ở miền Nam còn có phong trào đấu tranh của đồng bào miền Bắc bị cưỡng ép di cư vào Nam. Do mắc phải âm mưu của Mĩ – Diệm, gần 1 triệu đồng bào miền Bắc đã di cư vào Nam. Cho đến tháng 9/1955, chính quyền Ngô Đình Diệm đã lập được 286 làng định cư, trong đó có đến 265 làng định cư Thiên Chúa giáo. Mỗi làng do một vị linh mục đứng đầu. Số người di cư được chính quyền Diệm phân phối định cư ở hầu hết các tỉnh miền Nam, từ Quảng Trị đến Cà Mau, trong đó Tây Nguyên có 30.878 người, Trung Bộ có 101.738 người, Nam Bộ có 606.914 người (tổng cộng là 860.206 người).

Mặc dầu Mĩ – Diệm có sự chuẩn bị cho việc di cư, nhưng việc sắp xếp chỗ ăn, ở cho gần 900 ngàn người di cư không hề dễ dàng chút nào khi mà chính quyền Ngô Đình Diệm vừa mới được thành lập, lại vấp phải sự chống trả không chỉ của phía lực lượng cách mạng, mà còn cả của lực lượng các giáo phái lúc này đang kiểm soát một bộ phận lãnh thổ Nam Bộ. Đó là chưa kể việc Mĩ – Diệm cố tạo ra một “thiên đường” giả tạo, cốt để dụ dỗ được nhiều người di cư mà thôi, chứ thực tế thì ngược lại.

Để giải quyết việc làm cho dân di cư, Đài phát thanh Sài Gòn và các tỉnh thông báo ai cần nhân công thì đến các trại tiếp cư. Có cả trường hợp dân di cư bị mua về cũng không chịu làm việc. Họ chỉ đòi 3 mẫu ruộng, 2 con trâu và 1 cái nhà cất sẵn mà Diệm và tay chân đã hứa. Derocheau, Phó Thư kí Phòng cứu tế giáo dân đến Đông Dương nghiên cứu vấn đề di cư đã đề xuất: “Biện pháp giải quyết trong việc sử dụng dân di cư… là đưa họ lên các đồn điền cao su đang thiếu nhân công”. Với biện pháp đó, Mĩ – Diệm đã đưa một số lượng lớn đồng bào di cư đến lao động ở các đồn điền. Theo tờ Le Monde (Pháp) ra ngày 29/1/1955, con số này là 5 vạn người. Tuy vậy, việc ổn định đời sống cho đồng bào di cư cho mãi đến cuối năm 1956, đầu năm 1957 vẫn chưa thực hiện được. Tình hình đó dẫn đến những cuộc đấu tranh của đồng bào di cư chống Mĩ – Diệm ngay khi họ mới đến miền Nam.

Ngày 24/1/1955, đồng bào di cư ở Khánh Hoà chống lại lệnh của Tỉnh trưởng buộc họ dỡ nhà đi nơi khác. Ngày 3/6/1955, đồng bào di cư ở Đà Nẵng, gồm hàng nghìn người, biểu tình đòi tiếp tế gạo và đòi trở về miền Bắc. Ngày 12/5/1955, 500 người di cư ở Sài Gòn biểu tình kéo đến trụ sở Uỷ ban Quốc tế đòi được cấp giấy tờ trở về miền Bắc. Trong các tháng 8, 9 & 10/1955, có các cuộc đấu tranh của hàng nghìn đồng bào di cư ở Bình Thuận, Mĩ Tho, Quảng Nam, Thủ Đức (Sài Gòn) đòi giải quyết đời sống, đòi hiệp thương và đòi trở về miền Bắc.

Tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh của nông dân di cư ở Cái Sắn (Rạch Giá) chống ký kết khế ước, đòi quyền sở hữu đối với ruộng đất khai hoang. Phần lớn ruộng đất ở Cái Sắn trước kia thuộc sở hữu của các địa chủ, nhưng đã bỏ hoang từ trong chiến tranh. Diệm đưa về Cái Sắn 4 vạn đồng bào di cư để khai hoang. Công việc khai hoang xong, Diệm bắt nông dân ký khế ước, nhận làm tá điền trên ruộng đất họ vừa khai khẩn được. Đồng bào di cư, được sự phối hợp của đồng bào địa phương, đã chống trả quyết liệt. Tháng 8/1956, bà con di cư chống lệnh của Diệm bắt họ ký khế ước, đòi quyền sở hữu trên đất họ khai hoang. Địch đối phó lại bằng cách không phát tiền phụ cấp cho đồng bào.

Tiếp theo, ngày 2/10/1956, hơn 500 đồng bào di cư tập trung trước Văn phòng đại diện Phủ Tổng uỷ di cư ở quận, đòi phát phụ cấp hai tháng 8 & 9. Địch hứa sẽ phát phụ cấp nhưng với điều kiện là đồng bào phải chịu ký khế ước. Chúng lại còn đưa lính đến uy hiếp nhân dân. Ngày 9/10/1956, gần 1.000 đồng bào di cư, với sự tham gia của đồng bào địa phương, tụ hợp lại để đưa yêu sách. Tên Quận trưởng đến ra lệnh bắt ký khế ước, bị đồng bào bắt giữ. Trước tinh thần kiên quyết của đồng bào, chính quyền Quận và đại diện Phủ Tổng uỷ di cư phải nhượng bộ, chịu phát phụ cấp và hoãn việc ký khế ước.

b) Xây dựng LLVT, giữ gìn và phát triển lực lượng các mạng (1956 – 1959)

Qua 2 năm sống dưới chế độ Mĩ – Diệm, nhân dân miền Nam không chỉ nằm trong tình cảnh đất nước bị chia cắt, chiến tranh đe doạ, mà hàng ngày, hàng giờ còn bị chính sách độc tài, phát xít của Mĩ – Diệm áp bức, bóc lột, tù tội, chém giết dã man. Qua các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, địch đã gây ra những tổn thất lớn đối với cách mạng miền Nam. Trước tình đó, từ ngày 8 đến ngày 9/6/1956, Bộ Chính trị TW Đảng đã họp, ra Nghị quyết về “Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam”. Sau khi nhận định rằng: “Chế độ miền Nam là chế độ độc tài, phát xít…phản động nhất, đội lốt dân chủ”, Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng hình thức tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định, hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của giáo phái chống Diệm”, Bộ Chính trị chủ trương phải “củng cố các lực lượng vũ trang hiện có và xây dựng căn cứ làm chỗ dựa, đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh, làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang”, phải “tổ chức tự vệ trong quần chúng, nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh và giải thoát cán bộ khi cần thiết”.

Với Nghị quyết này, Bộ Chính trị đã vạch ra những vấn đề chỉ đạo chiến lược mới đối với cách mạng miền Nam, trong đó quan trọng nhất là vấn đề tự vệ vũ trang để bảo vệ phong trào đấu tranh của quần chúng cách mạng, bảo vệ cơ sở và cán bộ Đảng; vấn đề xây dựng lực lượng và căn cứ cách mạng. Đây thực sự là bước chuyển hướng đường lối cách mạng ở miền Nam. Tuy nhiên, do hạn chế về kỹ thuật của hệ thống thông tin liên lạc, nên Nghị quyết quan trọng này đến với các cơ sở rất chậm trễ, nhiều nơi không nhận được, nên không đáp ứng kịp sự chuyển biến của phong trào cách mạng miền Nam.

Tháng 8/1956, đồng chí Lê Duẩn, Uỷ viên BCT đang công tác ở miền Nam, trên cơ sở phân tích khoa học tình hình xã hội, tình hình địch, ta ở miền Nam cũng như cả trong nước và trên thế giới, đã thảo ra tài liệu “Đường lối cách mạng miền Nam” để làm phương hướng chỉ đạo cho phong trào cách mạng miền Nam. Bản “Đường lối cách mạng miền Nam” (8/1956) khẳng định: “Nhân dân ta ở miền Nam chỉ có một con đường là vùng lên chống lại Mĩ – Diệm để cứu nước và tự cứu mình. Đó là con đường cách mạng. Ngoài con đường đó không có con đường nào khác”.

Tiếp thu Nghị quyết của Bộ Chính trị (6/1956) và “Đường lối cách mạng miền Nam” (8/1956), tháng 12/1956 Xứ uỷ Nam Bộ tiến hành Hội nghị đề ra nhiệm vụ khẩn cấp cho cách mạng miền Nam là “phải dùng bạo lực tổng khởi nghĩa giành chính quyền”, trước mắt cần “tích cực xây dựng LLVT tuyên truyền, lập các đội vũ trang bí mật, xây dựng căn cứ miền núi, tranh thủ vận động, cải tạo, tập hợp các lực lượng giáo phái bị Mĩ – Diệm đánh tan rã từng mảng vào hàng ngũ nhân dân và lợi dụng danh nghĩa giáo phái ly khai để diệt ác ôn”.

Những chủ trương trên đây của Đảng giúp phong trào cách mạng miền Nam từng nước tháo gỡ khó khăn. Phong trào đấu tranh của quần chúng từng bước được khôi phục, phát triển và giành lại thế chủ động.

* Xây dựng LLVT và căn cứ địa cách mạng:

Ở Nam Bộ, do có chuẩn bị trước, lại sớm tiếp thu “Đường lối cách mạng miền Nam”, nên lực lượng vũ trang mang danh nghĩa giáo phái được thành lập ở nhiều nơi. Các đội tự vệ võ trang bí mật thành lập ở hầu khắp các tỉnh, thành phố. Đến giữa năm 1957, ở rừng U Minh (Tây Nam Bộ), Đồng Tháp Mười (Trung Nam Bộ), các đội vũ trang cách mạng hoạt động dưới danh nghĩa giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hoà Hảo,…cũng được phát triển thành các đơn vị vũ trang tuyền truyền, như các tiểu đoàn Ngô Văn Sở, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng ở Cà Mau, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng ở Sóc Trăng, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng ở Cần Thơ, tiểu đoàn U Minh ở Rạch Giá, tiểu đoàn 502 ở Kiến Phong, tiểu đoàn 504 ở Kiến Tường, tiểu đoàn 506 và 508 hoạt động ở Bắc & Nam đường 4 và căn cứ Rừng Sác, tiểu đoàn 510 & 512 hoạt động ở khu vực Sông Tiền và Bảy Núi. Tháng 8/1957, Vĩnh Long thành lập tiểu đoàn  Trần Hưng Đạo hoạt động ở vùng Lấp Vò, Tam Bình (Sa Đéc).

Tháng 10/1957, tại căn cứ chiến khu Đ cũ, một đơn vị chủ lực đầu tiên ở Nam Bộ, tiểu đoàn 250, chính thức được Xứ uỷ phê chuẩn thành lập. Sự kiện này đánh dấu một bước chuyển biến rất quan trọng trong quá trình phát triển của phong trào đấu tranh cách mạng miền Nam.

Để có vũ khí trang bị cho LLVT, tỉnh Tân An, Chợ Lớn đã đào được vũ khí trang bị cho 3 đại đội của 3 tỉnh Mĩ Tho, Gò Công, Tân An. Ở Kiến Tường, bộ đội chủ lực đào được 280 khẩu; các huyện du kích và tự vệ mật cũng đào được đủ số súng trang bị cho từ 1 – 2 trung đội. Bên cạnh việc thành lập các đơn vị vũ trang, cấp uỷ và cán bộ phong trào ở các địa phương miền Nam đã vận động xây dựng các tổ chức nòng cốt từ đảng viên, quần chúng trung kiên đến nhân dân, bí mật cài nhân cốt và đặt cơ sở mật trong nguỵ quyền thôn xã, dân vệ và các đơn vị nguỵ quân.

Cùng với việc xây dựng LLVT, từ đầu năm 1957, Xứ uỷ Nam Bộ đã có kế hoạch xây dựng căn cứ địa ở Đông Nam Bộ, gồm 2 vùng căn cứ Đông Bắc và Tây Bắc. Căn cứ Đông Bắc nguyên là địa bàn chiến khu Đ cũ, được mở rộng lên giáp với biên giới Việt Nam – Campuchia; căn cứ Tây Bắc, nguyên là căn cứ Dương Minh Châu, cũng được mở rộng thêm so với trước. Năm 1958, cùng với việc mở rộng các căn cứ địa, ta xây dựng và củng cố các công binh xưởng ở Mã Đà (vùng Đông Bắc), Bà Chiêm (vùng Tây Bắc), mở các lớp đào tạo y tá, huấn luyện bộ đội biệt động, đặc công. Đối với miền Trung và miền Tây Nam Bộ, Xứ uỷ chủ trương tăng cường cán bộ và chỉ thị cho các tỉnh củng cố và mở rộng căn cứ Đồng Tháp Mười và U Minh. Riêng Cà Mau, từ năm 1958, quần chúng cách mạng đã anh dũng chống lại sự khủng bố, dồn dân của địch, rồi chủ động dời làng vào cư trú ở rừng U Minh, rừng đước Ngọc Hiển, hình thành nên “làng rừng” đầu tiên. Có “làng rừng” đông tới hàng ngàn người. Trong “làng rừng” có những đội vũ trang tự vệ, trang bị súng trường, mã tấu. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Cà Mau, các “làng rừng” đã mau chóng trở thành những căn cứ cách mạng vững chắc. Đến cuối năm 1958, Cà Mau đã xây dựng được 15 “làng rừng” với số dân lên tới 20.000 người. Đây thực sự là những làng xã tự do đầu tiên ở Nam Bộ được xây dựng dưới thời Mĩ – Diệm.

Tây Nguyên và các tỉnh Trung Bộ là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng. Mùa hè 1958, Khu uỷ Khu V ra Nghị quyết về xây dựng căn cứ Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh Trung Trung Bộ, lập cơ sở sản xuất, dự trữ lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược, thuốc men; động viên nhân dân tích cực tham gia làm “rẫy cách mạng”, bước đầu xây dựng lực lượng bán vũ trang và một số đơn vị vũ trang tập trung. Khu uỷ cũng chỉ đạo cho các địa phương thành lập các đội tự vệ ở các buôn, làng, xã để bảo vệ cơ sở, hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh của quần chúng tại chỗ, giải thoát cho cán bộ khi bị địch bắt, diệt các tên phản động ác ôn, phục hồi và mở rộng các cơ sở chính trị.

Thực hiện chủ trương trên đây, các cán bộ, đảng viên cả miền núi và đồng bằng nhanh chóng lập ra các “rẫy cách mạng”, sản xuất lương thực, thực phẩm, từng bước phát triển thành những căn cứ của khu, tỉnh. Trong khu căn cứ, các công binh xưởng sản xuất, sửa chữa vũ khí được xây dựng. Ở Kon Tum, có xã Đoàn, Hiếu, Tung Bung, Côxia, Tân Túc, Đắc Min; ở Gia Rai có huyện 2, huyện 7; Quảng Nam có căn cứ Hiên; ở Quảng Ngãi có khu căn cứ bao gồm 22 xã thuộc vùng cao 2 huyện Trà Bồng, Sơn Hà và 12 xã trong khu vực tiếp giáp giữa 3 huyện Sơn Hải, Minh Long, Ba Tơ và 8 xã thuộc địa phận phía Nam huyện Ba Tơ. Tỉnh Bình Định có khu căn cứ Vĩnh Thạnh; Phú Yên có các khu Thồ Lồ, Ma Dú; Đắc Lắc có Plây Ya; Khánh Hoà có Vĩnh Sơn, Khánh Sơn; Ninh Thuận có Bác Ái; Bình Thuận, Lâm Đồng có Tánh Linh, Di Linh nối liền nhau từ vùng giáp ranh đồng bằng đến ven đường quốc lộ 20.

Việc xây dựng các khu căn cứ cách mạng ở miền Nam có ý nghĩa chiến lược to lớn, nó tạo sức mạnh vật chất và lực lượng cho cách mạng. Từ các căn cứ kháng chiến này, lực lượng cách mạng được giữ gìn và phát triển.

* Hoạt động vũ trang tự vệ hỗ trợ quần chúng đấu tranh chính trị:

Khi Mĩ – Diệm mở các chiến dịch “tố cộng” giai đoạn II, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng đã có hoạt động vũ trang hỗ trợ. Tuy về quy mô và mức độ hỗ trợ ở các tỉnh không đều, nhưng các hoạt động vũ trang liên tục diễn ra. Những tên tay sai ác ôn, như Lê Phú Nhung – quận trưởng quận Đầm Dơi (Cà Mau), Lê Nhất Hữu – quận trưởng Ô Môn (Cần Thơ),…bị LLVT ta trừng trị. Ngay cả đến Ngô Đình Diệm cũng bị một thanh niên dùng tiểu liên ám sát, khi Diệm lên dự lễ khai mạc hội chợ tại Buôn Mê Thuột ngày 22/7/1957. Mặc dầu Diệm thoát chết, nhưng sự kiện này “đã bị báo chí phương Tây bàn tán nhiều, gây ảnh hưởng không tốt cho chính quyền Sài Gòn”.

Năm 1958, nổi bật là vụ diệt tên thiếu tá Lê Quang Phong, tỉnh trưởng tỉnh Kiên Giang; vụ diệt tên Võ Hoàng Nguyên – bí thư Đảng Cần Lao và là quận trưởng quận Ba Tơ (Quảng Ngãi)… tạo nên tiếng vang lớn, có tác dụng kích thích phong trào nhiều địa phương khác.

Số tề ác ôn ở cấp xã, thôn, ấp bị mất tích càng nhiều hơn. Theo báo cáo của Sứ quán Mĩ tại Sài Gòn (4/1958) thì mỗi tháng có chừng 25 tên tề của Diệm bị Việt cộng giết chết. Ngay cả chính quyền Ngô Đình Diệm cũng thú nhận nhân viên chính quyền xã thôn trong năm 1958 bị quần chúng trừng trị là 193 vụ và 4 tháng đầu năm 1959 là 119 vụ.

Song song với các hoạt động diệt ác, trừ gian, các LLVT cách mạng vừa được xây dựng, vừa tiến hành các cuộc tiến công, uy hiếp địch. Ban quân sự miền Đông Nam Bộ quyết định dùng LLVT mang danh nghĩa Bình Xuyên tiến công thị trấn Minh Thạnh (Thủ Dầu Một). Lực lượng tham gia bao gồm bộ đội tỉnh Thủ Dầu Một, đại đội 20 của tỉnh Tây Ninh, đại đội 60 của miền Đông và Xứ uỷ, cùng lực lượng bộ đội Bình Xuyên đã được giác ngộ (tổng cộng khoảng 21 tiểu đội). Lúc 9 giờ sáng ngày 10/8/1957, quân ta tiến công tiêu diệt các ổ đề kháng vòng ngoài và bọn cảnh sát, lính bảo vệ xung quanh, rồi đột nhập vào thị trấn, tiến đánh các mục tiêu bên trong. Ta tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, thu 10 xe GMC, nhiều vũ khí, lương thực và thực phẩm. Suốt đêm 10/8, ta huy động 20 xe tải và xe ngựa của sở cao su, cùng công nhân đồn điền chuyển chiến lợi phẩm về căn cứ. Đây được xem là trận đánh đầu tiên có quy mô tương đối lớn của LLVT tập trung miền Đông.

Ở Cần Thơ, tháng 10/1957, nhận được tin khoảng 1 đại đội quân nguỵ sẽ tràn vào ấp Hậu Bối (xã Vĩnh Lộc), Ban Chỉ huy tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng đã quyết định đánh trả. Trận đánh diễn ra bất ngờ, mau lẹ, số địch hành quân bị tiêu diệt hoàn toàn. Ta bắt sống tên Quận trưởng và một số tù binh, thu được 3 trung liên và hàng chục tiểu liên, súng trường.

Sang năm 1958, các đơn vị vũ trang Rạch Giá, Cần Thơ, Cà Mau, Long An, Bến Tre…liên tiếp tấn công địch, diệt ác ôn ở Đầm Dơi (Cà Mau), Vĩnh Bình, Chợ Mới (Rạch Giá), Châu Thành (Mĩ Tho), Long Mĩ, Vị Thanh, Ô Môn (Cần Thơ), Ba Tri (Bến Tre)…

Ở Tây Nguyên, ngày 7/6/1958, tù chính trị ở Chudron (Plâycu) được sự hỗ trợ của LLVT đã nổi dậy khống chế địch và sau đó toàn bộ thoát ly ra căn cứ. Theo báo cáo của Phó Tỉnh trưởng Plâycu – Hà Thúc Thảo gửi Bộ Nội vụ Sài Gòn thì: “Vào hồi 16h30’ ngày 7/6/1958, trong khi phạm nhân đang làm việc dưới sự canh gác của binh lính, thì một tiếng súng nổ từ bìa rừng. Ngay lúc đó chừng 100 phiến loạn xuất hiện từ bìa rừng xông vào tước khí giới và bắt giữ 2 binh lính có nhiệm vụ canh gác… Cùng lúc ấy…15 phạm nhân ở gần nhà bếp cùng xông vào tước khí giới của binh sĩ. Đối phương làm chủ tình thế trong vòng 20 phút, chúng lục soát doanh trại, tịch thu vũ khí, tiền bạc, phá huỷ dây trời của máy truyền tin…”.

Nổi bật nhất trong năm 1958 là cuộc tấn công chi khu, quận lỵ Dầu Tiếng. Lực lượng địch ở Dầu Tiếng gồm 2 tiểu đoàn chính quy, một đại đội bảo an và một trung đội lực lượng cảnh sát, dân vệ tại chỗ. Vào lúc 0 giờ ngày 11/10/1958, quân ta nổ súng tấn công. Sau 30 phút chiến đấu, quân diệt và làm bị thương 300 tên, bắt 30 tên, thu 20 súng và nhiều đồ dùng quân sự. Quân ta làm chủ quận lỵ trong 24 giờ. Quân địch đóng ở 20 đồn bốt xung quanh Dầu Tiếng hoang mang bỏ chạy. Đây là trận đánh lớn đầu tiên của LLVT cách mạng miền Nam, thể hiện bước phát triển mới về thế và lực của cách mạng.

Tiếp đó, ngày 25/10/1958, LLVT cách mạng đã tiến công trụ sở của phái đoàn cố vấn quân sự Mĩ (MAAG) tại Biên Hoà. Được sự giúp đỡ của nhân dân và tổ chức quần chúng địa phương, các chiến sĩ đặc công đã đột nhập voà nơi chiếu phim trong trụ sở, giữa lúc bọn Mĩ đang xem phim, bọn địch hoàn toàn bị bất ngờ. Ta giết chết 13 tên Mĩ và làm bị thương 6 tên. Cuộc tấn công này làm cho Nhà Trắng lo lắng, nghi ngờ về sự “ổn định” của chế độ Diệm.

Trên thực tế, những hoạt động vũ trang tự vệ đã có tác dụng kích thích tinh thần đấu tranh của quần chúng và răn đe đối phương. Nó đã trở thành một hình thức đấu tranh quan trọng và cần thiết để giữ vững phòng trào, bảo vệ cách mạng, có tác dụng thúc đẩy phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam phát triển lên một bước mới cao hơn.

* Phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ:

Từ khi các đội vũ trang tuyên truyền, vũ trang tự vệ ra đời, tiến hành diệt trừ một số tay sai ác ôn và đánh thắng một số trận, thì quần chúng đã có chỗ dựa tin cậy. Hoạt động vũ trang đã hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân chống địch “tố cộng”, dồn dân ở nông thôn, đồng thời khích lệ tinh thần đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống sa thải, chống bắt bớ, giam cầm, đòi tự do nghiệp đoàn của công nhân và lao động ở thành thị.

Năm 1957, có 150 cuộc đấu tranh lớn nhỏ chống địch dồn dân, cướp đất, đuổi nhà; đòi tự do làm ăn sinh sống, tự do khai khẩn đất hoang, canh tác và gia hạn các khế ước vay nợ đối với địa chủ. Mở đầu cho phong trào đấu tranh này là cuộc đấu tranh của đại diện nông dân ở 14 tỉnh Nam Bộ trong tháng đầu năm 1957, đòi định lại giá cả đất đai canh tác. Tiếp đó, đại biểu nông dân ở 37 xã của tỉnh Gò Công, 600 nông dân tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long tổ chức mít tinh, biểu tình, đưa yêu sách đòi hạ mức thuế và không được xáo cấp ruộng đất, làm ảnh hưởng không tốt tới việc trồng cây của nông dân. Giữa năm 1957, bà con nông dân xã Phước Long (quận Thủ Đức – tỉnh Gia Định) đã tập hợp nhau đấu tranh chống địa chủ, đòi giảm mức tô, thuế, hạ thấp lãi suất cho vay nợ trong những thời điểm giáp hạt. Cuộc đấu tranh đã kéo dài hàng tuần và được Hội nông dân Gia Định, Sa Đéc, Rạch Giá, Hà Tiên, Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh…ủng hộ mọi mặt. Trước khí thế đấu tranh không khoan nhượng của nông dân, đối phương phải chịu nhượng bộ.

Ở các tỉnh Vĩnh Long, Phước Tuy…nông dân đã tổ chức những cuộc mít tinh, viết đơn thư “thỉnh cầu” các cấp chính quyền Sài Gòn, yêu cầu sửa đổi thể lệ cho nông dân vay vốn tín dụng để sản xuất, kinh doanh… Nông dân Quảng Trị, Gia Định, Châu Đốc phản đối không cho quân nguỵ đến cào nhà, triệt làng, đào mồ mả để xây dựng căn cứ quân sự và trụ sở nguỵ quyền. Ở Cà Mau, Phong Dinh, Kiến Phong, Thừa Thiên… phong trào đấu tranh của nông dân lại hướng vào thực hiện những mục tiêu, như đòi tự do làm ăn sinh sống, chống bắt dân đi khai hoang xây dựng căn cứ quân sự của địch, tố cáo tội ác của bọn mật vụ, công an tra tấn, dùng nhục hình dã man với những người yêu nước.

Ở Ninh Thuận, đồng bào các dân tộc thiểu số đấu tranh không làm thẻ căn cước, không rời buôn làng vào khu tập trung. Tháng 4/1958, 3.000 đồng bào ở Bác Ái vùng dậy phá khu tập trung dân. Sau đó đồng bào kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang tự vệ, bảo vệ buôn rẫy, chống dồn dân. Đồng bào Khơme đấu tranh đòi được tự do học chữ và nói tiếng của họ. Đồng bào Chăm, Hoa kiều…ở vùng biên giới An Giang lên án chính quyền Sài Gòn bắt dân luyện tập quân sự, làm xâu đi xây dựng các công trình quân sự…

Ở Quảng Ngãi, nhân dân huyện Mộ Đức và Đức Phổ không thực hiện chủ trương của Mĩ – Diệm bắt dời làng vào sống trong khu “dinh điền”. Ở huyện Sơn Tịnh, địch ép dân đi hôm trước, hôm sau đồng bào đã bỏ trại về quê gần hết. Ở những nơi địch khống chế, nhân dân đã chống lại bằng cách phá máy móc, công cụ sản xuất, cơ sở vật chất, trang bị, bí mật bắt cóc, thủ tiêu tên cầm đầu rồi nổi dậy phá trại trở về.

Ở Tây Nguyên, những cuộc đấu tranh chống địch phá làng, phá buôn rẫy lập khu dinh điền thu hút đông đảo đồng bào Kinh, Thượng và một số nhân viên nguỵ quyền tham gia. Được cán bộ cách mạng trong buôn làng trực tiếp lãnh đạo, nhân dân đã cắm cọc, đào hào sâu, khoanh vùng rào giữ đất, không cho quân nguỵ lấn chiếm nương rẫy, bản làng. Khi địch dùng xe cơ giới ủi phá hàng rào, toàn bộ phụ nữ đã tập trung nhau lại chặn xe, chặn quân lính, không cho chúng hành động. Bọn chỉ huy ngoan cố ra lệnh cho lính xúc cả đất và người lên xe chở đi. Lập tức hàng trăm người trẻ, già, trai, gái xông vào dùng dao, cuốc, gậy gộc…đánh trả quân địch và cứu người bị nạn. Địch buộc phải lui quân, dừng hành động ủi phá buôn rẫy.

Từ những tháng đầu năm 1957, công nhân các đồn điền miền Nam đã đấu tranh quyết liệt với giới chủ, đòi cải thiện đời sống, cải tiến chế độ làm việc, chống khủng bố cán bộ cơ sở, nòng cốt và những công  nhân tích cực của phong trào. Mặc dầu giới chủ đồn điền một mặt dùng vũ lực đàn áp, mặt khác giải quyết nhỏ giọt một số quyền lợi về đời sống, điều kiện làm việc, nhưng các cuộc đình công, bãi công vẫn tiếp tục. Trong năm 1957, công nhân các đồn điền ở Biên Hoà, An Lộc, Minh Thạnh, Dầu Tiếng…đã tổ chức hơn 70 cuộc đấu tranh dưới các hình thức hợp pháp và không hợp pháp.

Để thống nhất chủ trương và hành động, cuối năm 1957, công nhân đồn điền các tỉnh miền Đông Nam Bộ tổ chức Đại hội Đại biểu, bầu ra cơ quan lãnh đạo thống nhất trong toàn ngành. Sau khi Đại hội kết thúc, hơn 10.000 công nhân các đồn điền Xa Cát, Xa Trạch, Dầu Tiếng và hàng nghìn công nhân Lộc Ninh, Phước Hoà, Tây Ninh, Khánh Hoà, 12.000 công nhân Đà Lạt, Plâycu, Kontum, Buôn Ma Thuột đã tổ chức cuộc đấu tranh đòi quyền sống, quyền làm việc, chống bắt bớ, đánh đập, sa thải công nhân, đòi thành lập nghiệp đoàn. Trước quy mô đấu tranh rộng lớn của phong trào, giới chủ đồn điền buộc phải thoả mãn một số yêu sách.

Ở đô thị, từ tháng 6 đến tháng 8/1957, công nhân các nhà ga xe lửa Chí Hoà, Dĩ An, Đà Nẵng đã tổ chức hàng chục cuộc biểu tình chống chế độ làm việc hà khắc, chống đuổi việc, đòi chấm dứt bắt bớ và tra tấn, tù đày các cán bộ nghiệp đoàn. Tháng 11/1957, công nhân toàn ngành hoả xa miền Nam tiến hành Đại hội vạch chủ trương, biện pháp đấu tranh, bảo vệ quyền lợi cho công nhân và ra kiến nghị đòi chính quyền Sài Gòn trả tự do cho Chủ tịch và Thư ký nghiệp đoàn ngành, cùng những công nhân đang bị giam giữ. Những kiến nghị và yêu sách của Đại hội ngành hoả xa đã được nghiệp đoàn công nhân các ngành khác ở Sài Gòn, Chợ Lớn và một số thành phố, thị xã đồng tình ủng hộ.

Chỉ tính trong năm 1957, các nghiệp đoàn công nhân miền Nam đã tổ chức được hơn 450 cuộc đấu tranh lớn nhỏ. Tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5/1957 của 289.000 công nhân thuộc các nhà máy, đồn điền, công sở và nhân dân Sài Gòn – Gia Định, cùng các địa phương lân cận được tổ chức tại 3 trung tâm: Công trường Diên Hồng, trường Petrus Ký, sân Tao Đàn và cùng đưa yêu sách đòi ổn định cuộc sống và thống nhất đất nước. Đây thực sự là cái mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành về nhiều mặt của giai cấp công nhân miền Nam.

Sang năm 1958, phong trào công nhân vẫn tiếp tục diễn ra trên diện rộng. Phong trào công nhân có sự đoàn kết, ủng hộ của nghiệp đoàn nông dân Nam Bộ, Đà Nẵng. Đỉnh cao của tinh thần đoàn kết đấu tranh trong năm 1958 được thể hiện trong cuộc biểu tình chống Mĩ – Diệm của hơn 500.000 công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp lao động khác thuộc 144 nhà máy, xí nghiệp, vùng nông thôn ngoại thành Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định vào ngày 1/5. Những người biểu tình đưa ra khẩu hiệu đòi chính quyền không được khủng bố, bắt giam, thủ tiêu những người kháng chiến, đòi để cho quần chúng được tự do hội họp, cải thiện chế độ làm việc và tiền lương cho công nhân, viên chức, đặc biệt là những người trực tiếp lao động.

Cùng với những hoạt động của LLVT tự vệ và phong trào diệt ác, phá kìm, những cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động, trí thức… trong giai 2 năm 1957 – 1958, một mặt góp phần làm suy yếu chính quyền Ngô Đình Diệm về chính trị, khẳng định sự bấp bênh của một chính quyền tay sai không có cơ sở xã hội; mặt khác, nó đã tạo ra những tiền đề hết sức quan trọng nhằm chuyển phong trào cách mạng miền Nam sang một bước phát triển mới cao hơn.

3. Phong trào “Đồng khởi” (1959 – 1960).

a) Những tiền đề của phong trào:

Chính sách phát xít của Mĩ – Diệm làm cho các tầng lớp nhân dân miền Nam hết sức căm phẫn. Mặt trận đấu tranh chống Mĩ – Diệm đã hình thành, bao gồm mọi tầng lớp, nòng cốt là công nông. Trong hàng ngũ nguỵ quân, nguỵ quyền diễn ra những mâu thuẫn ngày càng sâu sắc. Báo chí chính quyền Sài Gòn cho biết: “Ở nông thôn, Hội đồng Hương chính lừng chừng, ở thành thị, công chức thiếu tin tưởng ở thắng lợi của chính phủ quốc gia, trí thức thì hiềm nghi chế độ cộng hoà”. Bản thân Diệm cũng lo sợ một cuộc lật đổ, nên đã ra sức sàng lọc, thanh trừng nội bộ gắt gao. Trong số 123 dân biểu Quốc hội khoá I (1956), Diệm đã gạt mất 73, trong đó có cả một số trước kia tích cực ủng hộ Diệm. Các vị trí then chốt trong Quốc hội, Diệm cũng thay bằng những tay chân thân tín của y.

Bước sang năm 1959, làn sóng đấu tranh của quần chúng ngày càng lên cao, hoạt động vũ trang tuyên truyền, vũ trang tự vệ phát triển trên toàn miền Nam, hỗ trợ tích cực cho quần chúng chống địch lập “khu trù mật”. Rầm rộ nhất là phong trào nhân dân chống bầu cử Quốc hội khoá II của Diệm (8/1959). Nhân dân tìm mọi cách không đi bỏ phiếu hoặc làm cho lá phiếu không hợp lệ. Ở Mỏ Cày (Bến Tre), nhân dân giết chết cán bộ của địch và cướp hòm phiếu. Tại nhiều nơi ở Nam Bộ và Liên khu V, nhân dân tổ chức mít tinh, biểu tình, rải truyền đơn chống bầu cử hoặc dùng các đội vũ trang tuyên truyền tiến công vào những nơi đặt thùng phiếu để nhân dân lấy cớ không đi bỏ phiếu. Trong lúc đó, trên thế giới, các chính quyền thân Mĩ ở Irắc, Nam Triều Tiên, Thổ Nhĩ Kỳ, Cu Ba bị lật đổ, làm cho Mĩ – Diệm thêm bối rối, nguỵ quyền hoang mang dao động, biểu hiện ở một số tề điệp, dân vệ, bảo an, binh lính…đi tìm các đoàn thể cách mạng để thanh minh. Cuối năm 1959, đầu năm 1960, “chế độ thống trị ở miền Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Tuy ở thành thị địch còn tương đối mạnh, nhưng trong nhiều vùng nông thôn rộng lớn, địch không thể cai trị nhân dân một cách bình thường được nữa, nguỵ quyền cơ sở từng phần đã suy yếu và bất lực. Còn quần chúng nhân dân, đặc biệt là nông dân thì sôi sục cách mạng đã tỏ ra kiên quyết và sẵn sang chiến đấu sống chết với quân thù. Đó là điều kiện chín muồi cho phép phát động quần chúng nông thôn nổi dậy khởi nghĩa từng phần, đập tan khâu yếu nhất trong hệ thống cai trị của địch”.

Cách mạng miền Nam đang đứng trước thử thách nghiêm trọng nhất, đòi hỏi có phương hướng chỉ đạo kịp thời để đối phó với địch, đồng thời để duy trì và phát triển phong trào.

Tháng 1/1959, Hội nghị TW Đảng lần thứ 15 họp và ra Nghị quyết về đường lối cách mạng của cả nước và của miền Nam. Sau khi phân tích tình hình cụ thể, Hội nghị xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Về phương pháp cách mạng, Nghị quyết chỉ rõ: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân” và “theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với LLVT để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.

Như vậy, phương hướng giành thắng lợi của cách mạng miền Nam là dùng khởi nghĩa của toàn dân để giành chính quyền, nhưng Nghị quyết cũng dự đoán khả năng rằng “đế quốc Mĩ là đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam có khả năng chuyển thành một cuộc đấu tranh vũ trang”.

Hội nghị lần thứ 15 của TW Đảng đã cắm một mốc quan trọng và có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong sự phát triển mới của phong trào cách mạng miền Nam, đáp ứng nguyện vọng bức thiết của đông đảo quần chúng cách mạng. Hội nghị không những đã đề ra được đường lối có tính nguyên tắc cho cách mạng miền Nam, mà còn đặt cơ sở để tiến tới đề ra nhiệm vụ chiến lược một cách chính xác và toàn diện.

Nghị quyết của Hội nghị đã động viên mạnh mẽ tinh thần cách mạng của toàn dân, tăng cường hơn nữa sự nhất trí trong Đảng về đường lối cách mạng miền Nam, tạo nên một sự chuyển biến căn bản và nhảy vọt của phong trào cách mạng miền Nam trong những năm 1959 – 1960, mà đỉnh cao là phong trào “Đồng Khởi”.

Tuy nhiên, do tình hình diễn biến phức tạp mà Nghị quyết lịch sử này phải một thời gian sau, từ giữa đến cuối năm 1959 mới phổ biến trong toàn Đảng bộ miền Nam.

b) Diễn biến phong trào:

Từ khi có Nghị quyết 15 soi sáng, phong trào cách mạng miền Nam đã có những phát triển to lớn.

Tại Liên khu V, sau những cuộc nổi dậy của nhiều địa phương miền núi, đêm 7/2/1959, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân vùng B’râu, huyện Bác Ái (Ninh Thuận) đã nổi dậy phá khu tập trung, kéo nhau về buôn làng cũ. Tháng 4/1959, toàn khu tập trung Tầm Ngân của địch lại bị nhân dân phá tan. Tiếp đó 12 xã thuộc huyện Bác Ái cũng nổi dậy phá bỏ hệ thống kìm kẹp ở cơ sở, lập chính quyền cách mạng, tổ chức làng chiến đấu, xây dựng đội du kích.

Tiếp theo Bác Ái, từ ngày 28/8/1959, đã diễn ra cuộc khởi nghĩa Trà Bồng, một huyện miền Tây Quảng Ngãi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, 16.000 đồng bào nổi dậy đấu tranh chính trị, có sự hỗ trợ của LLVT, quét sạch nguỵ quyền 16 xã, bức địch rút 7 đồn, diệt hàng trăm tên tề nguỵ ác ôn, thành lập chính quyền cách mạng ở thôn, xã dưới hình thức Uỷ ban nhân dân tự quản.

Từ Trà Bồng, cuộc khởi nghĩa lan sang các huyện khác, như Minh Long, Sơn Hà, Ba Tơ. Trên một địa bàn rộng (5.000km2) bao gồm 4 huyện, với 4 dân tộc (Cor, Hrê, Cà Dong, Kinh) đã giành được thắng lợi lớn.

Địch đối phó quyết liệt bằng các cuộc càn quét kết hợp với bao vây kinh tế. Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Khu uỷ và Tỉnh uỷ, có các huyện xung quanh thuộc Quảng Ngãi, Quảng Nam và LLVT tỉnh, khu chi viện, Trà Bồng vẫn giữ vững và mở rộng căn cứ địa liên hoàn với các huyện ở gần.

Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng được coi như là một trong những cuộc khởi nghĩa từng phần đầu tiên trong giai đoạn chuyển mình của cách mạng miền Nam vào cuối năm 1959, có tác dụng thúc đẩy phong trào chung tiến lên một cách mạnh mẽ.

Trong khi Bác Ái và Trà Bồng đang thu được những thắng lợi, thì tại đồng bằng Nam Bộ, trên nhiều vùng rộng lớn, quần chúng cũng nổi dậy diệt ác, phá thế kìm kẹp, làm tan rã từng mảng hệ thống nguỵ quyền ở cơ sở. Ngày 26/9/1959, tại Giồng Thị Đam, xã Tân Hội, huyện Hồng Ngự (Đồng Tháp), LLVT tỉnh đã đánh thắng lớn ở Gò Quản Cung, tiêu diệt 1 tiểu đoàn và làm tổn thất nặng 1 tiểu đoàn khác của địch, phá tan cuộc càn quét của địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm ở nhiều nơi. Cuộc nổi dậy có tính chất điển hình là cuộc Đồng khởi của nhân dân Bến Tre; ở đây, quần chúng khởi nghĩa đã sáng tạo ra những hình thức đấu tranh hết sức phong phú theo tinh thần: “Chính trị là chủ yếu, vũ trang là đòn xeo và giữ thế hợp pháp của quần chúng”.

Bến Tre, một tỉnh nhỏ trong các tỉnh Trung Nam Bộ, nằm về phía Đông Nam, cách Sài Gòn 86 km. Tỉnh Bến Tre bốn bề là sông nước. Ở phía Bắc, con sông Tiền ngăn cách Bến Tre với Định Tường (Tiền Giang nay). Phía Tây và Nam, sông Cổ Chiên phân ranh giới Bến Tre và Vĩnh Long và Trà Vinh. Phía Đông là biển Đông với chiều dài bờ biển 65 km. Hai con sông Ba Lai và Hàm Luông chảy giữa tỉnh, chia Bến Tre thành nhiều cù lao. Trên mỗi cù lao, sông ngòi, kênh rạch chằng chịt.

Nhân dân Bến Tre có truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng kiên cường. Do vậy, địch đã chọn Bến Tre làm nơi thí điểm đánh phá phong trào cách mạng. Chúng chia Bến Tre thành 7 quận, 115 xã, đồng thời xây dựng các đơn vị chủ lực, bảo an, dân vệ đủ mạnh để đàn áp cách mạng. Các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” của Mĩ – Diệm đã diễn ra một cách khốc liệt. Hàng loạt cán bộ, đảng viên bị thủ tiêu. Tính đến cuối năm 1959, địch đã sát hại 2.519 cán bộ, đảng viên, bắt 17.000 người. Trong 115 xã chỉ còn 18 xã có chi bộ Đảng. Mặc dù vậy, địch vẫn không khuất phục nổi nhân dân Bến Tre. Từ cuối năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Bến Tre, phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân đã diễn ra sôi nổi. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi Hiệp thương tổng tuyển cử, đòi tự do dân chủ, chống khủng bố, đàn áp diễn ra ở nhiều nơi.

Hai năm đấu tranh bằng phương pháp hoà bình không mang lại kết quả, nhân dân Bến Tre bắt đầu tổ chức những vụ diệt ác bí mật, lẻ tẻ, từng bước hình thành LLVT ngầm và bắt đầu đột nhập chiếm lấy một số đồn bốt của địch. Tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện ở Bến Tre. Ngày 17/1/1960, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Bến Tre, lệnh “Đồng khởi” được phát ra từ xã Định Thuỷ, huyện Mỏ Cày, mở đầu bằng cuộc bao vây, tiến công tiêu diệt tổng đoàn dân vệ xã. Quần chúng đồng loạt nổi dậy giương cờ và biểu ngữ, nổi chiêng trống, tạo thế uy hiếp, bao vây lực lượng dân vệ và các trụ sở tề ở thôn, xã, lùng bắt bọn ác ôn, giải tán chính quyền địch, phá bỏ tổ chức liên gia, tuyên bố quân lệnh của cách mạng: “Bọn ác ôn có nợ máu và bọn địa chủ cướp ruộng đất của nông dân sẽ bị trừng trị… Binh sĩ, sĩ quan đã có tội đến đâu mà biết hối cải đều được khoan hồng, nếu mang súng trở về với nhân dân sẽ được khen thưởng… Tề xã, ấp, liên gia trưởng, công an, chỉ điểm, đi trả chức với nhân dân sẽ được khoan hồng. Ai trái lệnh sẽ bị nhân dân trừng trị”.

Tỉnh uỷ đề ra yêu cầu, mục tiêu khởi nghĩa là dùng mọi cách phát động quần chúng nổi dậy mạnh mẽ, liên tục, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ của nhân dân; ra sức phát triển lực lượng chính trị và vũ trang; củng cố và phát triển cơ sở Đảng; giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân.

Yêu cầu của phong trào là phải diễn ra trên một diện rộng, cùng một lúc nổi dậy ở nhiều nơi, căng lực lượng của địch, phân tán sự đối phó của chúng. Thuật ngữ “Đồng khởi” ra đời từ đây.

Cùng với Định Thuỷ, các xã Phước Hiệp, Bình Khánh nổi dậy phối hợp. Chỉ trong đêm 17/1/1960, cách mạng đã giành thắng lợi ở cả 3 xã, rồi lan sang các xã khác trong toàn huyện, rồi đến các huyện Thạnh Phú, Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri. Trong 8 ngày, 17 – 24/1/1960, lực lượng cách mạng đã giải phóng 22 xã, diệt hơn 200 tên địch, đánh lui nhiều cuộc càn quét, thu hơn 100 súng, bao vây bức hàng, bức rút 37 đồn bốt, phá tan bộ máy kìm kẹp trên một vùng nông thôn rộng lớn. Từ trong phong trào Đồng khởi, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh Bến Tre được thành lập. Vừa mới ra đời, đơn vị vũ trang đã tổ chức chiến đấu dũng cảm, diệt đồn bốt địch, lấy súng địch trang bị cho mình.

Ngày 22/2/1960, địch huy động 10.000 quân chủ lực từ thị xã Bến Tre, Mĩ Tho, Trà Vinh và Sài Gòn, 15 tàu chiến cùng với máy bay, đại bác tập trung tấn công vào 3 xã Định Thuỷ, Binh Khánh và Phước Hiệp. LLVT của ta sau khi làm nhiệm vụ đánh chặn, tiêu hao sinh lực địch, đã được lệnh rút khỏi vòng vây của địch.

Trong phong trào Đồng khởi Bến Tre, đội quân chính trị mà nòng cốt là phụ nữ đã biểu tình ngăn chặn quân địch càn quét, đấu tranh đòi chấm dứt bắn phá, đòi bồi thường nhân mạng và tài sản; kéo lên quận, tỉnh đòi địch phải bảo vệ dân, chấm dứt đưa quân càn quét, khủng bố… Tên gọi “Đội quân tóc dài” ra đời từ đây và đi vào lịch sử cách mạng Việt Nam như một dấu son chói lọi về vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước.

Rút kinh nghiệm của đợt I, Đảng bộ Bến Tre quyết định tổ chức Đồng khởi đợt II với quy mô lớn hơn. Huyện Giồng Trôm được chọn làm trọng điểm. Ngày 24/9/1960, nhân dân Ba Châu (Châu Phú, Châu Thời, Châu Hoà) bằng sự kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và binh vận, đã lấy gọn được 3 đồn địch, thu 60 súng mà không tốn 1 viên đạn, 1 giọt máu nào.

Từ thắng lợi đó, làn sóng Đồng khởi toả ra các huyện khác. Cho đến 22/10/1960, Đồng khởi đợt II đã thu được thắng lợi rực rỡ: 60 đồn địch bị san phẳng, 400 địch bị giết, 48 xã hoàn toàn giải phóng.

Từ Bến Tre, phong trào Đồng Khởi nhanh chóng lan rộng ra nhiều tỉnh ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh đồng bằng Liên khu V. Cách mạng đã làm chủ được một vùng rộng lớn có ý nghĩa chiến lược nối liền từ Tây Nguyên xuống miền Đông, miền Tây Nam Bộ, Nam Trung Bộ, các tỉnh đồng bằng khu V, đồng thời cũng đã thúc đẩy quần chúng ở các đô thị, đặc biệt là Sài Gòn – Chợ Lớn đứng lên đấu tranh mạnh mẽ.

Từ phong trào Đồng Khởi, các LLVT cách mạng không ngừng lớn mạnh, tổ chức được những trận đánh có hiệu suất cao, tiêu biểu là trận Tua Hai (Tây Ninh) ngày 26/1/1960. Trong trận này, LLVT cách mạng đã diệt và làm bị thương 400 tên địch, trên 1.000 sĩ quan và binh lính nguỵ ra hàng. Trận Tua Hai là trận mở đầu cho thời kỳ đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang ở Đông Nam Bộ.

Với phong trào Đồng Khởi của nhân dân miền Nam trong năm 1959 – 1960, hệ thống kìm kẹp của Mĩ – Diệm ở các vùng nông thôn bị phá vỡ từng mảng, chính quyền cách mạng thành lập dưới hình thức “Uỷ ban nhân dân tự quản”, vùng giải phóng hình thành và mở rộng liên hoàn nhiều xã. Tính đến cuối năm 1960, tại các tỉnh Nam Bộ, cách mạng đã làm chủ 600 trong tổng số 1.298 xã, trong đó có 116 xã hoàn toàn giải phóng. Ở các tỉnh Trung Bộ, có 904 trong tổng số 3.829 thôn được giải phóng. Ở Tây Nguyên có tới 3.200 trong tổng số 5.721 thôn không còn chính quyền nguỵ. Theo sự thú nhận của Cục tình báo Trung ương Mĩ thì đây là “một thời kỳ nghiêm trọng đối với Tổng thống Ngô Đình Diệm và Việt Nam công hoà hiện đang ở ngay trước mắt… Trên một nửa toàn bộ vùng nông thôn nằm ở phía Nam và Tây Nam Sài Gòn, cũng như một số vùng ở phía Bắc đã nằm dưới quyền kiểm soát của cộng sản…”.

c) Ý nghĩa của phong trào:

Đối với địch, phong trào Đồng khởi đã “giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ”, làm lung lay tận gốc chính quyền Ngô Đình Diệm. Mâu thuẫn nội bộ chính quyền Ngô Đình Diệm ngày càng gia tăng. Ngày 26/4/1960, một nhóm cựu Bộ trưởng cùng với một số giới chức các tôn giáo và quân nhân nhóm họp tại Khách sạn Caraven (Sài Gòn) ra Tuyên ngôn tố cáo Diệm độc tài. Đỉnh cao mâu thuẫn nội bộ chính quyền Ngô Đình Diệm là cuộc đảo chính Diệm ngày 11/11/1960. Cuộc đảo chính đã bị thất bại, nhưng “nó nói lên lòng căm thù của nhân dân và binh sĩ miền Nam đối với chế độ độc tài hung bạo của Mĩ – Diệm, nó vạch trần sự thối nát, sự suy yếu và sụp đổ không thể tránh được của chính quyền Ngô Đình Diệm, tay sai của Mĩ”.

Đối với ta, thắng lợi của phong trào Đồng Khởi đã “đánh dấu một bước nhảy vọt quan trọng chuyển cách mạng miền Nam sang thế tiến công, phát triển cao trào cách mạng ra khắp miền với sự kết hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự”. Một mảng lớn hệ thống chính quyền cơ sở của địch ở nông thôn bị phá vỡ. Chính quyền cách mạng đã được thành lập trên một vùng rộng lớn co ý nghĩa chiến lược, nối liền từ Tây Nguyên đến miền Đông và Tây Nam Bộ, và xuống giáp đồng bằng các tỉnh ven biển miền Trung, tạo điều kiện cho nhân dân miền Nam đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” tiếp theo sau đó của đế quốc Mĩ. “Những cuộc đấu tranh cách mạng ấy thực chất là cao trào khởi nghĩa của quần chúng, bao gồm những cuộc khởi nghĩa từng phần, để giành lấy thế mạnh về chính trị, xây dựng một hình thức chính quyền cách mạng ở thôn xã, hình thành bước đầu LLVT của nhân dân”. Nó chứng minh tính đúng đắn của Nghị quyết 15 và tính năng động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo của các Đảng bộ miền Nam. Thắng lợi ấy tạo ra bước phát triển nhảy vọt của lực lượng cách mạng cả về quân sự và chính trị, đẩy chính quyền Sài Gòn vào thế khủng hoảng triền miên kéo dài.

Phong trào Đồng Khởi đã ghi vào lịch sử cách mạng miền Nam như là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Từ trong phong trào Đồng Khởi, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời (20/12/1960) tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (Tân Biên nay), tỉnh Tây Ninh. Mặt trận chủ trương đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược và tay sai Ngô Đình Diệm, thành lập chính quyền liên minh dân tộc rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hoà bình, thống nhất Tổ quốc.

IV. Miền Bắc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội (1961 – 1965) (4 tiết).

1. ĐHĐB Toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (9 – 1960)

Cho đến năm 1960, sự nghiệp cách mạng ở 2 miền Bắc – Nam đã có những bước tiến quan trọng, đòi hỏi Đảng phải khẳng định đường lối chiến lược, có bước đi phù hợp để đưa cách mạng Việt Nam không ngừng tiến lên. Đáp ứng đòi hỏi này, lần đầu tiên sau 30 năm hoạt động bí mật và chiến tranh, từ 5 – 12/9/1960, ĐHĐB toàn quốc lần thứ III của Đảng được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Tham gia đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước. Có gần 20 đoàn đại biểu các Đảng Cộng sản anh em, các đảng phái và đoàn thể trong MTTQVN đã đến dự và chúc mừng Đại hội.

Sau bài Diễn văn khai mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội tập trung thảo luận “Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của Kế hoạch 5 năm 1961 – 1965”,… Đại hội đã kiểm điểm quá trình gần 10 kể từ Đại hội II (2/1951), cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, vạch ra đường lối đấu tranh thống nhất nước nhà và đường lối cách mạng XHCN ở miền Bắc.

Đại hội khẳng định rằng: Với việc miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, với những thành quả to lớn của cuộc cách mạng ruộng đất, của kế hoạch khôi phục kinh tế sau chiến tranh, của kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế và xã hội, miền Bắc đã có thể và cần thiết phải chuyển sang giai đoạn Cách mạng XHCN. Do đó, Đại hội III được coi là “Đại hội xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”.

Đại hội đã phân tích, nhận định 3 đặc điểm của miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ tiến lên CNXH là:

– Một là, kinh tế miền Bắc là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu dựa trên sản xuất nhỏ cá thể, cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản hết sức kém cỏi, non yếu. Công nghiệp mới phôi thai, nông nghiệp và thủ công nghiệp phân tán chiếm bộ phận lớn trong nền kinh tế quốc dân. Diện tích canh tác bình quân đầu người trên dưới 1/10 ha. Trình độ văn hoá của nông dân còn thấp, cơ sở vật chất do chế độ cũ để lại hầu như không có gì. Nền kinh tế miền Bắc trải qua 15 năm chiến tranh bị tàn phá nặng nề, năng suất lao động thấp, đời sống của nhân dân thiếu thốn về nhiều mặt. Tình hình đó, một mặt gây khó khăn cho miền Bắc khi xây dựng CNXH, nhưng mặt khác lại đòi hỏi miền Bắc phải tiến nhanh lên CNXH trên cơ sở tích cực sử dụng những thuận lợi căn bản để khắc phục khó khăn.

– Hai là, sự lớn mạnh của phe XHCN đứng đầu là Liên Xô là thuận lợi căn bản bảo đảm cho miền Bắc có thể bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, tiến thẳng lên CNXH.

– Ba là, miền Bắc tiến hành cách mạng XHCN trong hoàn cảnh đất nước bị chia làm 2 miền. Miền Bắc cần phải tỏ rõ tính hơn hẳn so với miền Nam, đồng thời làm cơ sở vững chắc cho nhân dân cả nước trong cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.

Trên cơ sở đó, Đại hội xác định nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước lúc này là: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạng cách mạng XHCN ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng DTDCND ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe XHCN và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”.

Căn cứ vào đặc điểm tình hình ở mỗi miền, Đại hội chỉ rõ cả nước thực hiện hai chiến lược cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng DTDCND ở miền Nam, và nhấn mạnh: “Đưa miền Bắc tiến lên CNXH là một nhiệm vụ tất yếu sau khi đã hoàn thành cách mạng DTDCND. Đưa miền Bắc tiến lên CNXH, làm cho miền Bắc được ngày càng vững mạnh về mọi mặt thì chúng ta càng có lợi cho cách mạng giải phóng miền Nam… Vì vậy, tiến hành cuộc cách mạng XHCN ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà”, rằng “trong sự nghiệp cách mạng DTDCND trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, đồng bào miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mĩ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam”.

Đại hội đã phân tích về mối quan hệ gắn bó, vai trò, vị trí của 2 chiến lược cách mạng: “Nhiệm vụ cách mạng miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc 2 chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mĩ và bọn tay sai của chúng. Thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hoà bình thống nhất Tổ quốc”.

Đại hội cho rằng: “Công cuộc cách mạng XHCN ở miền Bắc phải là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt, nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về TLSX tiến lên nền kinh tế XHCN dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn XHCN, từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại”.

Cải tạo XHCN và xây dựng CNXH là 2 mặt của cuộc cách mạng XHCN. Do tình hình cụ thể của miền Bắc mà trong thời kỳ đầu, cải tạo XHCN là trọng tâm, trong đó cải tạo nông nghiệp là khâu chính của toàn bộ công cuộc cải tạo XHCN. Khi công cuộc cải tạo XHCN đã giành thắng lợi có tính chất quyết định thì sẽ chuyển sang lấy xây dựng CNXH làm trọng tâm, thực hiện công nghiệp hoá XHCN đồng thời hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN. Quá trình cải biến cách mạng để đưa miền Bắc tiến lên CNXH là một quá trình kết hợp cải tạo và xây dựng kinh tế với cải tạo và xây dựng văn hoá, giải quyết tốt quan hệ giữa xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng.

Đại hội Đảng lần III, xuất phát từ quan điểm cho rằng công nghiệp hoá XHCN là con đường duy nhất để cải biến tình trạng nông nghiệp lạc hậu, đưa nước ta từ chế độ sản xuất nhỏ lên chế độ sản xuất lớn XHCN, đã coi công nghiệp hoá XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ, trong đó, điểm mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trong đó ngành chế tạo máy là then chốt.

Như vậy, theo nhận thức và quan điểm của Đảng ta vào thời điểm đó (và trong suốt nhiều năm sau này) thì ĐHĐB Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III là cái mốc đánh dấu sự kết thúc thời kỳ cải tạo nền kinh tế về mặt sở hữu và sự mở đầu của thời kỳ xây dựng kinh tế có kế hoạch trên quy mô lớn. Ý tưởng giải quyết mâu thuẫn giữa chính quyền cách mạng tiên tiến với QHSX lạc hậu bằng cải tạo XHCN, giải quyết mâu thuẫn giữa QHSX tiên tiến với cơ sở kinh tế kỹ thuật lạc hậu bằng kế hoạch 5 năm công nghiệp hoá XHCN, lấy cách mạng KHKT làm then chốt…đã chi phối mọi hoạt động xã hội trong suốt một thời kỳ dài mà Đại hội III là một sự khẳng định chắc chắn về đường lối.

Từ đây, miền Bắc nước ta chuyển sang thời kỳ lấy xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH làm nhiệm vụ trọng tâm, đồng thời tiếp tục hoàn thành cải tạo XHCN, củng cố và hoàn thiện QHSX mới, với khẩu hiệu hành động từ cuộc chỉnh huấn mùa xuân năm 1961, khẩu hiệu mà bây giờ chúng ta cho rằng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, nhưng vào thời điểm đó thì hừng hực khí thế cách mạng, là “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”.

Đại hội đã bầu ra BCHTW mới của Đảng gồm 47 Uỷ viên chính thức và 31 Uỷ viên dự khuyết; Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng; Lê Duẩn được bầu làm Bí thư Thứ nhất BCHTW Đảng; Bộ Chính trị gồm 11 Uỷ viên chính thức và 2 Uỷ viên dự khuyết.

ĐHĐB toàn quốc lần thứ III của Đảng là một sự kiện rất trọng đại trong lịch sử cách mạng nước ta. Căn cứ vào sự phát triển của thực tiễn cách mạng ở 2 miền nước ta và chiều hướng chung của cách mạng trên thế giới, Đại hội đã vạch ra được đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo nhằm đẩy mạnh cuộc cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng DTDCND ở miền Nam, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả 2 cuộc cách mạng lớn của thời đại ở trong nước và trên thế giới để đánh thắng đế quốc Mĩ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Đại hội là nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng, toàn dân ta xây dựng thắng lợi CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.

2. Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 – 1965)

Về cách mạng XHCN ở miền Bắc, Đại hội III của Đảng đã xác định: “Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước anh em…để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà”.

Để đạt được mục tiêu trên đây trong thời kỳ quá độ đưa miền Bắc tiến lên CNXH, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra 5 nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch KTXH 5 năm 1961 – 1965:

a) Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, phát triển công nghiệp nhẹ, phát triển giao thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp HTX, chuẩn bị cơ sở để tiến lên biến nước ta thành một nước công nghiệp và nông nghiệp XHCN.

b) Hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp TBCN tư doanh, tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng QHSX XHCN trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

c) Nâng cao trình độ văn hoá nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, nâng cao năng lực quản lí kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động, đẩy mạnh công tác khoa học và kỹ thuật, đẩy mạnh thăm dò tài nguyên thiên nhiên và điều tra cơ bản, nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và văn hoá.

d) Cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta được ăn no, mặc ấm, tăng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập; mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.

e) Đi đôi và kết hợp với việc phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc”.

Để cụ thể hoá đường lối cách mạng XHCN do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã thông qua, TW Đảng và Chính phủ xác định những phương hướng và chỉ tiêu cơ bản phát triển kinh tế quốc dân trong Kế hoạch 5 năm và các mối quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp; giữa nhiệm vụ cải tạo XHCN với tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh; giữa nhiệm vụ phát triển văn hoá – giáo dục với đạo tạo đội ngũ công nhân – cán bộ KHKT; giữa phát triển kinh tế với nâng cao đời sống nhân dân và tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ miền Bắc và tăng cường chi viện cho miền Nam.

* Phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH:

– Về nông nghiệp:

Nhiệm vụ cơ bản của KH 5 năm là: “ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện”. Nông nghiệp được coi là cơ sở để phát triển công nghiệp. Trong những năm đầu của KH, việc củng cố và phát triển các HTX quy mô thôn được đẩy mạnh ở đồng bằng và trung du. Trong KH phát triển nông nghiệp – nông thôn, TW coi trọng việc áp dụng những tiến bộ KHKT trong nông nghiệp, phát triển chăn nuôi, mở mang thêm nghề rừng và các nghề phụ khác, sử dụng tốt sức lao động tập thể trong các HTX, tận dụng sức lao động trong các gia đình xã viên.

Trong quá trình cải tiến quản lý, các HTX nông nghiệp đã tiếp tục chuyển lên bậc cao. Tính đến tháng 10/1961, trên 9.000 HTX (trong tổng số 41.000 HTX) đã lên cấp cao quy mô liên thôn. Trong những vụ đầu, năm đầu, hầu hết số HTX bậc cao ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đã phát huy sức mạnh vật chất, tinh thần, tập trung cải tạo các hệ thống thuỷ lợi nội đồng, mở mang bờ vùng bờ thửa, chủ động tưới tiêu, củng cố đê điều phòng chống lũ lụt.

Để khắc phục tình trạng quản lý HTX còn kém, tổ chức lao động chưa tốt, tệ tham ô, lãng phí khá phổ biến, từ năm 1963 đến năm 1965, Đảng và Chính phủ tiến hành cuộc vận động cải tiến quản lý HTX, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc.

Nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng, nhiều trạm bơm, hồ chứa nước được hoàn thành, như trạm bơm sông Mã, trạm bơm La Khê (Hà Đông), công trình thuỷ lợi Ấp Bắc – Nam Hồng (ngoại thành Hà Nội), hồ chức nước La Ngà (Vĩnh Linh),… Những công trình thuỷ lợi này đã hình thành nên một mạng lưới thuỷ lợi rộng lớn, bảo đảm tưới và tiêu nước cho 73% diện tích gieo trồng.

Nhằm từng bước xoá bỏ tình trạng lao động thủ công, lạc hậu trong nông nghiệp, Nhà nước chú trọng nhiều trong việc cải tiến công cụ phục vụ, phương tiện vận tải và trang bị máy kéo và các loại máy công nghiệp cho các HTX. So với năm 1960, đến năm 1965 số trạm máy kéo tăng gấp 3,3 lần, số máy kéo phục vụ các HTX nông nghiệp tăng 7,2 lần, diện tích gieo trồng được cày bằng máy tăng gấp 14,5 lần, số máy bơm nước tăng gấp 9,7 lần…

Những biện pháp trên đã làm tăng năng suất lúa. Đến cuối 1965, có 7 huyện và 610 HTX đạt hoặc vượt mức năng suất 5 tấn thóc/héc-ta. Nông nghiệp cũng từng bước phá thế mất cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi; năm 1955 chăn nuôi đạt 15,3% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp, năm 1965 đạt tới 22,9%.

Kết thúc KH 5 năm (1961 – 1965) có 90,1% số hộ nông dân vào HTX, trong đó có 60,1% HTX bậc cao, với số diện tích đưa vào sản xuất tập thể là 80,3% toàn bộ diện tích canh tác. Các HTX Đại Phong (Quảng Bình), Tân Phong (Thái Bình),… đã trở thành ngọn cờ đầu, tiêu biểu cho phong trào nông nghiệp miền Bắc ở thời kỳ này.

* Những hạn chế của nền nông nghiệp miền Bắc thời kỳ này:

Vật tư nông nghiệp thiếu trầm trọng. Lao động thủ công vẫn chiếm đại bộ phận trong các HTX, lao động cơ giới chiếm tỷ lệ không đáng kể (năm 1965 có 1,9% diện tích được cày bằng máy). Trình độ văn hoá, KHKT của nông dân chưa thay đổi bao nhiêu. Tốc độ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật mới trong các HTX còn rất chậm. Năm 1962, trung bình mỗi HTX chỉ có 78,4ha đất canh tác, 41 con trâu bò, 55 chiếc cày bừa cải tiến, 0,3 chiếc máy tuốt lúa, 0,3 chiếc máy bơm, 10 chiếc xe và thuyền vận tải thô sơ.v.v.

Sự trói buộc của cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, sự yếu kém về trình độ, sự lúng túng trong cách làm ăn mới, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, thiên tai luôn đe doạ.v.v.là những nguyên nhân chủ yếu khiến nông nghiệp phát triển chậm.

Việc hợp tác hoá và phát triển HTX bậc cao bị nhiều địa phương do chạy theo thành tích nên làm ồ ạt, không theo đúng hướng dẫn của TW, khả năng quản lý lại yếu nên dẫn đến tình trạng các HTX trì trệ, yếu kém. Bên cạnh những HTX có sự phát triển tốt, rất nhiều HTX sản xuất kém, đời sống xã viên thấp. Năm 1963 có đến 52% số hộ thiếu ăn từ 2 tháng trở lên; có 44.659 hộ xã viên xin ra khỏi HTX (chiếm 17% nông hộ toàn miền Bắc). Một số HTX có quy mô quá lớn (liên thôn, xã) do không quản lý nổi, lại phải tách nhỏ trở lại.

Rõ ràng, tư tưởng chủ quan, duy ý chí, vội vã thủ tiêu nền kinh tế nhiều thành phần, đánh đồng giữa hợp tác hoá với tập thể hoá, thiếu tôn trọng tính tự nguyện của người nông dân.v.v. đã dẫn đến những hạn chế to lớn trong nông nghiệp. Một cái nhìn chung cho thấy: nền nông nghiệp những năm đầu sau khi hợp tác hoá phát triển chưa cao, chưa vững chắc, chưa có những chuyển biến thật sự mạng tính cách mạng.

Tuy nhiên, những thành tựu của nông nghiệp, của HTX có được trong giai đoạn này vẫn có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển trong giai đoạn sau đó, giai đoạn chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ.

– Về công nghiệp:

Trong thời kỳ 1961 – 1965, Nhà nước đã dành ưu tiên đầu tư đến 48% vốn xây dựng cơ bản của nền kinh tế quốc dân để đầu tư cho công nghiệp nói chung, trong đó đầu tư cho công nghiệp nặng chiếm 80%. Nhiều xí nghiệp công nghiệp nặng với quy mô tương đối lớn và trang bị hiện đại đã được xây dựng. Một số đã được cơ khí hoá hoặc tự động hoá một phần dây chuyền sản xuất. Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên được khởi công xây dựng từ tháng 9/1960, sau KH 5 năm đã có nhiều hạng mục công trình được hoàn thành, như nhà máy điện Thái Nguyên, Lò cao số 1, số 2 và Xưởng luyện cốc. Tháng 1/1964, nhà máy nhiệt điện Uông Bí đã đi vào sản xuất. Tháng 8/1964, công trình thuỷ điện Thác Bà được khởi công. Một số nhà máy điện phục vụ địa phương cũng được xây dựng, như ở Việt Trì, Thanh Hoá,… Đến năm 1965, sản lượng điện tăng gấp 2,5 lần so với năm 1960, trong đó sản lượng điện phục vụ nông nghiệp tăng gấp 8,4 lần 1960. Những xí nghiệp hoá chất, như Nhà máy Supe phốt phát Lâm Thao, Nhà máy phân đạm Bắc Giang cũng đã bước vào sản xuất trong thời kỳ này.

Trong KH 5 năm 1961 – 1965, ngành công nghiệp nhẹ cũng được chú ý phát triển, tập trung vào các ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, như các nhà máy giấy, đường, miến, mì chính, sứ, pin, dệt kim… Cuối năm 1965, miền Bắc đã sản xuất gần tới 80% hàng tiêu dùng trong nước với 12.000 mặt hàng khác nhau.

Để đáp ứng sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp, các công trình giao thông đã được xây dựng thêm. Cầu Hàm Rồng và đoạn đường sắt Vinh – Đồng Hới đã hoàn thành. Các tuyến đường ô tô đến các huyện miền núi được mở thêm. Năm 1964, khối lượng hàng hoá do ngành đường sắt vận chuyển tăng gấp 3 lần so với năm 1938 trên toàn Đông Dương; hàng hoá vận chuyển bằng đường ô tô năm 1965 tăng gấp 6 lần năm 1955, đường sông tăng gấp 4,5 lần.

* Những hạn chế trong công nghiệp:

Điện mới chỉ chủ yếu phục vụ công nghiệp, còn nông nghiệp và thủ công nghiệp và phục vụ dân sinh thì chưa được bao nhiêu. Ngành cơ khí cũng chỉ mới đáp ứng được khoảng 10% thiết bị, còn lại phải nhập khẩu. Ngành than năng suất thấp, sản lượng không tăng, chất lượng kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành trong nước và xuất khẩu. Ngành luyện kim mới ở giai đoạn đầu, sản phẩm còn ít ỏi. Ngành vật liệu xây dựng mới chỉ đáp ứng được nhu cầu Nhà nước, chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu nhân dân, kỹ thuật còn thô sơ. Nhiều ngành công nghiệp nhẹ và sản xuất hàng tiêu dùng còn yếu, chưa giải quyết được sự khan hiếm hàng hoá và nhu cầu của nhân dân ngày một gia tăng(dệt, da, may mặc…).

Tóm lại, công nghiệp miền Bắc 1961 – 1965 có một bước tiến đáng kể. Phần lớn công nghệ phẩm phục vụ nhu cầu nhân dân là do công nghiệp trong nước sản xuất. Các ngành công nghiệp cơ bản như điện, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng, nhiên liệu, dệt, da…đã hình thành dù còn nhỏ bé, nhưng là chỗ dựa, là nòng cốt của toàn bộ nền công nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào mục tiêu công nghiệp hoá XHCN mà Đảng đề ra thì rõ ràng là nền công nghiệp miền Bắc chưa đạt được trình độ mong muốn. Giá trị sản lượng công nghiệp mới chỉ đạt khoảng 50% tổng giá trị công nông nghiệp. Sô nhân công trong công nghiệp mới chỉ chiếm 5% số người trong độ tuổi lao động. Năng suất lao động còn quá thấp. Khả năng cung cấp TLSX cho các ngành kinh tế quốc dân còn quá nhỏ bé (Ngành cơ khi mới chỉ cung cấp được 20% máy móc cần thiết, chất lượng thấp). Tốc độ phát triển công nghiệp chậm hơn so với thời kỳ khôi phục và cải tạo.v.v. Nguyên nhân hạn chế là do không giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp nặng với công nghiệp nhẹ, giữa xí nghiệp quy mô lớn với quy mô nhỏ, giữa xây dựng xí nghiệp mới và cải tạo xí nghiệp cũ; do KHKT chưa đáp ứng được những yêu cầu của các ngành sản xuất công nghiệp (các cơ quan nghiên cứu phục vụ sản xuất, cán bộ KHKT ít và hạn chế, khả năng quản lý xí nghiệp còn yếu).v.v. Rõ ràng, việc ưu tiên phát triển thái quá ngành công nghiệp và khu vực kinh tế quốc doanh trong kế hoạch phát triển đầu tiên này đã dẫn đến tình trạng mất hiệu quả kinh tế, phụ thuộc vào nước ngoài, nông nghiệp đình trệ. Tuy nhiên, vẫn phải khẳng định những gì mà ngành công nghiệp đạt được trong KH 1961 – 1965 cũng rất đáng kể, là bước đầu quan trọng đặt nền tảng xây dựng nền công nghiệp nước nhà.

– Về thương nghiệp quốc doanh:

Do được Nhà nước ưu tiên phát triển nên đã nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường, góp phần củng cố QHSX XHCN. Năm 1965, cùng với HTX mua bán, thương nghiệp quốc doanh đã bán lẻ được khối lượng hàng hoá tăng 84,3% so với năm 1960.

Riêng ngoại thương, có 35 nước ở khắp các châu lục có quan hệ buôn bán, trao đổi với nước ta (so với 1955 có 10 nước, trong đó có 7 nước XHCN). Ngoại thương phát triển đã góp phần bảo đảm cung cấp thiết bị cho công nghiệp và kích thích nhiều ngành sản xuất, đặc biệt là thủ công nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu.

* Phát triển văn hoá, giáo dục, y tế:

– Đời sống kinh tế phát triển đòi hỏi sự nghiệp giáo dục phát triển để nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân. Số học sinh phổ thông năm học 1965 – 1966, khi kết thúc KH 5 năm, là 2.934.900 người (năm học 1960 – 1961 là 1.899.000). Xã nào cũng có trường cấp I; trung bình 2 xã có 1 trường cấp II. Số người học bổ túc văn hoá khoảng 1 triệu. Trình độ văn hoá của công nhân, viên chức nói chung được nâng lên ngang cấp II; trình độ cán bộ xã và HTX nâng lên ngang lớp 4 – 5. Nhiều trường phổ thông nông nghiệp, công nghiệp, trường thanh niên lao động XHCN được thành lập đã giải quyết được việc nâng cao trình độ văn hoá cho người lớn tuổi.

Ngành giáo dục đại học phát triển với 3 hình thức đào tạo: dài hạn, chuyên tu và tại chức. Năm học 1965 – 1966 có 21 trường với 3.390 giảng viên và 34.208 sinh viên (gấp hơn 2 lần 1960 – 1961 có 10 trường với 1.260 giảng viên và 16.690 sinh viên).

Hệ thống giáo dục chuyên nghiệp cũng được mở rộng, năm 1965 có 154 trường với 3.159 giáo viên và 60.018 học sinh.

Việc đào tạo giáo viên một cách chính quy được đẩy mạnh: năm 1960 có trên 44 nghìn giáo viên phổ thông và hơn 1.200 giảng viên đại học; năm 1965 có gần 79 nghìn giáo viên phổ thông và trên 2.500 giảng viên đại học.

Công tác nghiên cứu, thí nghiệm và áp dụng KHKT được đẩy mạnh. Việc nâng cao trình độ đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đưa KHKT vào sản xuất, đặc biệt là trong nông nghiệp và giao thông vận tải.

Đánh giá một các tổng quát, có thể thấy sự nghiệp giáo dục đào tạo sau hơn 10 năm đã có một bước phát triển nhanh chóng và toàn diện, cả về ngành học, số người học, về đội ngũ giáo viên, cũng như việc xoá mù chữ, nâng cao trình độ học vấn cho các tầng lớp nhân dân nói chung. Mặc dù trình độ chưa thật cao, nhưng sự tiến bộ của trình độ học vấn đã tạo điều kiện tốt để tiếp thu đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, tiếp thu và ứng dụng các thành tựu KHKT, thưởng thức các tác phẩm văn học, nghệ thuật.

Cùng với sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp y tế cũng đạt được nhiều thành tích đáng kể. Tính đến cuối 1965, toàn miền Bắc đã có 1.525 bác sỹ, tăng gấp 3 lần so với năm đầu KH, với 618 bệnh viện, bệnh xá và viện điều dưỡng. Khắp các xã đều có mạng lưới phòng và chữa bệnh, bao gồm hơn 6 vạn y sĩ, y tá và nữ hộ sinh với hơn 5.000 trạm y tế xã. Việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được chăm lo. Công tác phòng chống dịch được thực hiện tốt, các bệnh phổ biến như sốt rét, lao, đau mắt hột.v.v. được đẩy lùi.

* Về đời sống nhân dân:

Tốc độ sinh đẻ tăng nhanh, tỷ lệ chết giảm mạnh, sau 10 năm dân số tăng thêm 6 triệu người, là một áp lực đáng kể lên việc thực hện KH 5 năm.

Mặc dù Đảng – Nhà nước có nhiều cố gắng, nhưng do còn nhiều khó khăn, nên mức sống vật chất của người dân còn chưa được cải thiện nhiều. Phần thu nhập chính của nhân dân rất thấp, chủ yếu dành cho ăn, còn vấn đề mặc, ở và các chi khác là rất ít. Việc ăn cũng chỉ đang ở mức phấn đấu đủ ăn (trung bình 10kg gạo/người), nông thôn hàng năm có từ 8 – 15% thiếu ăn. Về vải mặc, trung bình mỗi người được 3,5m/năm. Mới chỉ khoảng 15% dân số có đủ chăn màn và quần áo ấm. Năm 1965, với trên 15 triệu nông dân, cứ 300 hộ mới có 1 hộ làm nhà mới, số nhà ngói chiếm 17% ở khu vực đồng bằng.

Tuy nhiên, các thành tựu về giáo dục, y tế, văn hoá lại có ý nghĩa rất lớn đối với việc không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Tất cả, từ những biến đổi còn nhỏ nhoi về đời sống vật chất đến những thay đổi lớn lao trong đời sống văn hoá tinh thần, đã góp phần tạo nên một sắc thái mới, một khi thế mới trong xã hội, là nguồn động lực cho các phong trào thi đua yêu nước của nhân dân miền Bắc trong thời kỳ thực hiện KH 5 năm lần thứ nhất.

* Các phong trào thi đua tiêu biểu:

Trong nông nghiệp có phong trào “Học tập, tiến kịp và vượt HTX nông nghiệp Đại Phong”. Đại Phong(Quảng Bình), lá cờ đầu của ngành nông nghiệp, trở thành mục tiêu phấn đấu của nông dân miền Bắc, nhất là thanh niên nông thôn. TW Đoàn phát động thành phong trào thi đua phấn đấu trở thành “Trai, gái Đại Phong”.

Trong công nhân có phong trào “Học tập Duyên Hải, thi đua với Duyên Hải”. Nhà máy cơ khí Duyên Hải (Hải Phòng).

Trong thủ công nghiệp có HTX Thành Công (Thanh Hoá).

Trong ngành giáo dục có phong trào thi đua “Hai tốt” (Học thật tốt, dạy thật tốt) theo gương thầy trò trường cấp II Bắc Lý (Lý Nhân – Hà Nam)

Trong quân đội có phong trào “Ba nhất”

Cả miền Bắc đều lấy những điển hình của ngành mình, dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi “Gió Đại Phong, sóng Duyên Hải, cờ Ba Nhất, trống Bắc Lý”. Trong công nhân viên chức, Đảng – Nhà nước phát động phong trào thi đua “Tổ đội lao động XHCN”. Tháng 5/1962, Đại hội anh hùng chiến sỹ thi đua toàn quốc lần III được tổ chức, tuyên dương 4 tập thể điển hình trên và 45 anh hùng lao động khác.

Tháng 3/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “Hãy đẩy mạnh phong trào thi đua “mỗi người làm việc bằng hai”, kiên quyết vượt mọi khó khăn, ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc XHCN, hết lòng ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam”. Cả miền Bắc sôi nổi hưởng ứng, bước vào công cuộc vừa sản xuất vừa chiến đấu xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam. Các phong trào thi đua mới lại xuất hiện.

Trong thanh niên có phong trào “Ba sẵn sàng”, xuất phát từ sáng kiến của thanh niên Hà Nội, do TW Đoàn phát động 2/1965 (Sẵn sàng chiến đấu dũng cảm và sẵn sàng vào bộ đội; Sẵn sàng khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, học tập trong bất kỳ tình huống nào; Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến). Đến 5/1965 đã có 2,5 triệu nam nữ thanh niên tham gia “Ba sẵn sàng”. Đó là một phong trào cách mạng rộng lớn, một chiến trường lập công, một trường học vĩ đại bồi dưỡng thế hệ thanh niên anh hùng của dân tộc.

Trong phụ nữ có phong trào “Ba đảm đang” (3/1965). Đó là: Đảm đang sản xuất, thay thế chồng con đi chiến đấu; Đảm đang gia đình để chồng con yên tâm chiến đấu; Đảm đang công tác xã hội và phục vụ chiến đấu khi cần thiết. Đến 7/1965 đã có 1,7 triệu phụ nữ tham gia “Ba đảm đang”.

Rõ ràng, những điều kiện lịch sử mới của công cuộc xây dựng CNXH đã tạo cơ sở cho phong trào quần chúng, cho việc huy động sức mạnh toàn dân và nâng lên tầm vóc mới; đến lượt nó, phong trào và sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân trong điều kiện mới đã góp phần quyết định hoàn thành KH 5 năm lần thứ nhất, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam.

* Củng cố vào bảo vệ chính quyền cách mạng:

Những thành tựu về các mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế trong KH 5 năm (1961 – 1965) không tách rời với việc củng cố chính quyền nhân dân các cấp từ TW xuống các địa phương. Tháng 10/1962, Quốc hội thông qua Luật tổ chức Hội đồng Nhân dân các cấp. Đạo luật này quy định tất cả các đơn vị hành chính địa phương đều có Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Hành chính. Hội đồng nhân dân sẽ quyết định các vấn đề về kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương; quy định trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc thực hiện kế hoạch kinh tế, văn hoá của Nhà nước; đồng thời cũng quy định sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Chính phủ và các Uỷ ban Hành chính cấp trên đối với cấp dưới.

Ngày 27/3/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập “Hội nghị Chính trị đặc biệt” tại Hà Nội, gồm các đại biểu thay mặt các đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo; đồng bào miền Nam tập kết, kiều bào mới về nước và các tầng lớp nhân dân để đánh giá và biểu dương thành tích đấu tranh và xây dựng của nhân dân ta trong 10 năm. Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sau 10 năm khôi phục, cải tạo “miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều đổi mới”. Cũng tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Hiện nay, bọn hiếu chiến Mĩ và bè lũ tay sai mới của chúng lại ba hoa hô hào “Bắc tiến”. Nhưng chúng phải hiểu rằng: Nếu chúng liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ bị thất bại thảm hại. Vì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đánh lại chúng, vì các nước XHCN và nhân dân tiến bộ toàn thế giới sẽ hết lòng ủng hộ ta; vì nhân dân Mĩ và các nước đồng minh của Mĩ cũng sẽ phản đối chúng.

Tình hình miền Nam hiện nay chứng tỏ một cách rõ rệt sự thất bại không thể tránh khỏi của đế quốc Mĩ trong cuộc chiến tranh đặc biệt này”; đồng thời kêu gọi nhân dân miền Bắc ra sức thi đua “mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại đồng bào miền Nam ruột thịt”.

Tiếp theo, ngày 26/4/1964, cuộc bầu cử Quốc hội khoá III đã được tiến hành trên toàn miền Bắc.Tổng số đại biểu trúng cử là 366, bao gồm đại biểu công nhân, nông dân, quân nhân, trí thức, dân tộc thiểu số. Quốc hội khoá III còn có 87 đại biểu miền Nam đã trúng trúng cử khoá II được kéo dài nhiệm kỳ, nên tổng số đại biểu Quốc hội khoá III là 453 người.

Thời gian thực hiện KH 5 năm (1961 – 1965) cũng là thời gian đế quốc Mĩ tiến hành “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, và đẩy mạnh hoạt động gián điệp khiêu khích đối với miền Bắc. Vì vậy, việc tăng cường xây dựng LLVT được Đảng và Chính phủ quan tâm xúc tiến. Ngày 15/4/1960, Luật Nghĩa vụ quân sự được ban hành. Các tổ chức công an, toà án, viện kiểm sát nhân dân được tăng cường xây dựng và hoạt động, kiên quyết trấn áp những phần tử phản động cùng bọn gián điệp, biệt kích do Mĩ – Diệm tung ra phá hoại công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân miền Bắc.

Công tác đối ngoại cũng được Đảng và Chính phủ quan tâm phát triển. Năm 1961, nhiều đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ và Quốc hội đã đi thăm các nước Liên Xô, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Ba Lan, Mông Cổ. Năm 1965, các đoàn đại biểu kinh tế Chính phủ Việt Nam đã có những cuộc đàm phán với các nước anh em, góp phần tăng cường lực lượng kinh tế, quốc phòng và tăng sức chiến đấu của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.

Cũng trong thời gian này, quan hệ Việt Nam với các nước Á, Phi, Mĩ La Tinh cũng được mở rộng hơn. Tháng 1/1960, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Cu Ba. Năm 1961, đặt quan hệ ngoại giao với Cộng hoà Ghinê và Cộng hoà Mali,… Quan hệ giữa Việt Nam với Lào và Campuchia được đặc biệt quan tâm. Từ ngày 1 – 9/3/1965, ba nước đã tổ chức Hội nghị Nhân dân Đông Dương, khẳng định quyết tâm đoàn kết của nhân dân 3 nước trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.

Với những thành tựu quan trọng đạt được trong KH 5 năm lần thứ nhất, bộ mặt miền Bắc đã có nhiều thay đổi và đã trở thành căn cứ địa cách mạng vững chắc của cách mạng Việt Nam, chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Trong hai năm 1963 – 1964, nhiều tiểu đoàn, trung đoàn bộ đội đã được cử vào miền Nam chiến đấu, số quân bổ sung cho chiến trường miền Nam tăng hơn 2 lần so với hai năm trước đó. Tuyến chi viện hậu cần Bắc – Nam được mở rộng, khối lượng vũ khí, đạn dược được chuyển vào chiến trường miền Nam cũng tăng gấp 1,5 lần.

Kế hoạch 5 năm đang thực hiện có kết quả tốt, thì ngày 5/8/1964, đế quốc Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi trên miền Bắc. Đến ngày 7/2/1965, Mĩ chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên toàn bộ lãnh thổ miền Bắc nước ta. Từ đó, miền Bắc phải chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với tình hình thời chiến.

Ngày nay nhìn lại, chúng ta thấy đường lối xây dựng và phát triển KTXH trong thời kỳ 1961 – 1965 thực chất là đường lối thực hiện kế hoạch hoá tập trung với toàn bộ xã hội. Chiến lược kinh tế dựa trên công nghiệp hoá (mà đặc thù của nó là quá chú trọng vào các ngành công nghiệp cơ bản), thiên về mục đích tự lực cánh sinh, tự cung tự cấp, ít quan hệ buôn bán với nước ngoài, một nền nông nghiệp với giai cấp nông dân đã được tập thể hoá và những hạn chế ngặt nghèo đối với kinh tế tư nhân, cá thể đã làm nảy sinh những hậu quả nghiêm trọng mà suốt một thời kỳ dài chúng ta chưa nhận thức được đầy đủ. Trước đây, mọi sự đánh giá đều lấy chuẩn mực là việc hoàn thành hay không hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước đặt ra cho mỗi ngành, mỗi cơ quan, đơn vị. Bao trùm và xuyên suốt tất cả là cái gọi là QHSX XHCN. Thời kỳ 1961 – 1965 vẫn được coi là thời kỳ xác lập một cách dứt khoát QHSX XHCN. Và QHSX XHCN cũng từng được coi là thành tựu lớn nhất của thời kỳ này. Kinh tế quốc doanh hoạt động dựa vào sự bao cấp hoàn toàn của Nhà nước và do vậy có tốc độ tăng trưởng khá, dần dần chiếm lĩnh vị trí chủ đạo của nền kinh tế. Kinh tế tập thể – nông nghiệp là chủ yếu, kế đó là thủ công nghiệp và một số ngành khác – cũng được bao cấp một phần, cũng buộc phải hoạt động theo sự chỉ đạo của Nhà nước, từ khâu sản xuất cho đến khâu lưu thông, phân phối sản phẩm. Trong khi nội dung của QHSX XHCN chưa được nhận thức một cách rõ ràng, mà mọi hoạt động của xã hội lại đều hướng vào mục tiêu củng cố và hoàn thiện nó, do vậy ở hầu hết các ngành đều vấp phải những lúng túng, vá víu, méo mó, khập khiễng, thậm chí có cả sự đổ vỡ. Những mục tiêu kinh tế lớn mà KH 5 năm lần thứ nhất đề ra, trong thực tế đã không thực hiện được trọn vẹn. Tuy nhiên, cần phải nói rằng, về mặt văn hoá, xã hội, thời kỳ 1961 – 1965, miền Bắc đã đạt được những thành tựu lớn lao. Đó là thành tựu trong việc tạo nên sự bình đẳng xã hội, trong việc cung cấp những dịch vụ xã hội cơ bản trên diện rộng và cố gắng thu hẹp khoảng cách về đời sống giữa nông thôn và thành thị. Đặc biệt hệ thống giáo dục và y tế phục vụ mọi người là một tài sản quan trọng đối với một nước có điều kiện lịch sử như nước ta vào thời kỳ này. Đó chính là nền tảng, là động lực của phong trào thi đua yêu nước, tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng đất nước trong hoàn cảnh đói ăn, thiếu mặc, thiếu tri thức của các tầng lớp nhân dân lao động miền Bắc, nhằm hướng tới một cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc; hướng tới một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.

V. Miền Nam chiến đấu chống “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ (1961 – 1965) (4 tiết).

1. Mĩ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam.

Phong trào Đồng Khởi 1959 – 1960 đã đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của cách mạng miền Nam. Từng mảng bộ máy cai trị và hệ thống kìm kẹp của nguỵ quyền Sài Gòn ở thôn xã bị phá vỡ. Phong trào Đồng Khởi rõ ràng đã làm tiêu tan hy vọng của Mĩ trong việc muốn biến miền Nam Việt Nam thành “con đê” ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam châu Á, làm lộ rõ bộ mặt tay sai bán nước của tập đoàn Ngô Đình Diệm, tạo ra một bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến lược ở miền Nam Việt Nam theo hướng có lợi cho cách mạng. Trong báo cáo gửi Tổng thống Mĩ cuối năm 1960, Đại sứ Nâutinh đã thú nhận: “Việt cộng dần dần mở rộng quyền kiểm soát ở nông thôn, nếu những tiến bộ như hiện nay của cộng sản cứ tiếp diễn thì có nghĩa là sẽ mất Việt Nam vào tay cộng sản”. Rõ ràng, trong thực tế, với phong trào Đồng Khởi, chính sách xâm lược của Mĩ ở miền Nam bằng những biện pháp cổ truyền (điển hình) của chủ nghĩa thực dân mới đã bị thất bại.

Mặt khác, cuối những năm 50, đầu những năm 60, tình hình thế giới đã có nhiều chuyển biến không có lợi cho các nước đế quốc nói chung, Mĩ nói riêng. Năm 1958, chính phủ thân Mĩ ở Irắc bị lật đổ. Năm 1959, cách mạng Cu Ba thắng lợi. Tháng 4/1961, Mĩ thất bại trong vụ đưa quân đánh thuê xâm lược Cu Ba ở vịnh Con Lợn và vấp vào vụ khủng hoảng tên lửa ở vùng Caribê tháng 10/1962, buộc phải cam kết không xâm lược Cu Ba để đổi lấy việc Liên Xô rút tên lửa khỏi nước này. Ở Lào, cuộc đảo chính ngày 9/8/1960 dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền thân Mĩ. Cũng thời điểm này, chiến lược quân sự toàn cầu “Trả đũa ồ ạt” tượng trưng cho sức mạnh của Mĩ cùng với những chính sách và biện pháp để thực hiện chiến lược đó đã không ngăn chặn được sự lớn mạnh của các nước XHCN, nhất là Liên Xô, Trung Quốc và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cuộc chạy đua vũ trang giữa Mĩ và Liên Xô đang diễn ra gay gắt. Liên Xô đã vượt Mĩ về chế tạo vũ khí hạt nhân.

Trong tình thế đó, để tiếp tục giữ vững miền Nam trong quỹ đạo của Mĩ, năm 1961, vừa bước vào Nhà Trắng, tập đoàn Kennơđi – Giônxơn đã xem xét, đánh giá lại toàn bộ tình hình thế giới và trong nước, và đi đến quyết định loại bỏ chiến lược “trả đũa ồ ạt”, vì không ngăn chặn nổi những cuộc chiến tranh nổi dậy (chiến tranh giải phóng), tiêu biểu là ở Việt Nam và chấp nhận phương hướng chiến lược toàn cầu mới do Macxim Taylo đề xướng: Chiến lược quân sự “Phản ứng linh hoạt”. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” là 1 trong 3 loại chiến tranh của chiến lược quân sự “Phản ứng linh hoạt” (Chiến tranh thế giới, Chiến tranh cục bộ, Chiến tranh đặc biệt).

Ngày 29/4/1961, Hội đồng An ninh Quốc gia Mĩ duyệt y bản “Chương trình hành động của Mĩ ở Nam Việt Nam”, gồm chính sách, biện pháp và các bước tiến hành “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam. Ngày 11/5/1961, Kennơđi chính thức phê chuẩn các quyết định của Hội đồng An ninh Quốc gia, trong đó mục tiêu và hành động của Mĩ ở miền Nam được xác định là nhằm: “Để ngăn chặn cộng sản thống trị Nam Việt Nam,… để xúc tiến với nhịp độ ngày càng nhanh một loạt những hoạt động hỗ trợ lẫn nhau có tính chất quân sự, chính trị, kinh tế, tâm lí và không công khai nhằm thực hiện mục tiêu nói trên”; đồng thời với việc chuẩn y các biện pháp trên đây, để tranh thủ các đồng minh châu Á và làm cho chính quyền quân sự Sài Gòn yên tâm về chính sách của Mĩ, thăm dò khả năng triển khai quân Mĩ vào miền Nam Việt Nam, ngay trong tháng 5/1961, Chính phủ Mĩ cử Phó Tổng thống Giôn-xơn sang thăm các nước Philippin, Đài Loan, Thái Lan, Ấn Độ, Pakitxtan và miền Nam Việt Nam. Tại Sài Gòn, ngày 13/5/1961, Giôn-xơn và Ngô Đình Diệm đã kí với nhau một bản Thông cáo chung, gồm một số nội dung chủ yếu là:

1) Mĩ tăng cường viện trợ quân sự, kinh tế và cố vấn cho Nam Việt Nam.

2) Tăng cường và mở rộng LLVT, bán vũ trang của Sài Gòn gồm quân chủ lực, bảo an và dân vệ.

3) Lập nhóm chuyên viên kinh tế, tài chính, quân sự cao cấp của hai bên để xây dựng kế hoạch hành động chung giữa Chính phủ Mĩ và Chính phủ Sài Gòn.

4) Mĩ hoan nghênh các nước khác viện trợ và hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm.

5) Triển khai mạnh mẽ chương trình “Ấp chiến lược”.

Ngoài ra, Thông cáo chung Giônxơn – Ngô Đình Diệm còn khẳng định những biện pháp mà hai bên đã thoả thuận “có thể sẽ được tiếp nối bằng những biện pháp rộng lớn hơn nữa” khi tình hình đòi hỏi.

Thực hiện Thông cáo chung trên đây, ngày 19/6/1961, Tổng thống Mĩ Kennơđi cử một “Phái đoàn kinh tế đặc biệt” do Stalây dẫn đầu sang Nam Việt Nam giúp Diệm xây dựng chương trình bình định. Sau gần một tháng nghiên cứu tình hình Nam Việt Nam, cuối tháng 7/1961, phái đoàn Stalây trình lên Kennơđi bản báo cáo trong đó yêu cầu Chính phủ Mĩ tăng thêm viện trợ về quân sự và kinh tế để phục vụ cho kế hoạch bình định.

Tiếp theo, ngày 18/10/1961, Chính phủ Mĩ cử một phái đoàn gồm các chuyên gia về quân sự, dân sự do Taylo cầm đầu sang miền Nam Việt Nam để nghiên cứu, đánh giá lại tình hình cụ thể và kết luận tại chỗ, đề ra các phương án đối phó. Ngày 3/11/1961, Taylo gửi về Nhà Trắng bản báo cáo, trong đó kiến nghị một loạt biện pháp cấp bách để cứu vãn tình hình, như cử các cố vấn hành chính tham gia bộ máy chính quyền Sài Gòn; tiến hành các biện pháp cần thiết để cải thiện các mạng lưới tình báo quân sự, chính trị trong chính quyền và quân đội; mở các cuộc điều tra rộng lớn trên khắp miền Nam liên quan tới “công tác chống nổi loạn” để có thêm cơ sở cho việc đề ra các biện pháp hiệu quả hơn; tăng cường viện trợ vũ khí, trang bị và huấn luyện cho các lực lượng bảo an, dân vệ để các lực lượng này đủ sức thay thế các đơn vị chính quy làm nhiệm vụ “giữ đất”, tạo điều kiện cho các đơn vị chính quy đẩy mạnh các cuộc hành quân cơ động, có tính tiến công; giúp đỡ chính quyền Sài Gòn giám sát và kiểm soát vùng biển và các đường thuỷ nội địa bằng cách cung cấp cố vấn, nhân viên điều hành và phương tiện cần thiết cho nhiệm vụ này; đưa vào miền Nam Việt Nam một lực lượng quân sự đặc nhiệm gồm 6.000 – 8.000 quân hoạt động dưới sự chỉ đạo, chỉ huy của Mĩ để tạo sự có mặt về quân sự, hỗ trợ các hoạt động quân sự và khi cần có thể mở các cuộc hành quân mang tính chất tiến công; tăng thêm viện trợ để hỗ trợ thích đáng chương trình “chống nổi loạn mở rộng”.

Ngoài các biện pháp kể trên, phái đoàn Taylo còn kiến nghị một “Chương trình tham gia có giới hạn” của Mĩ trong lĩnh vực quân sự; cử sang Nam Việt Nam các cố vấn cấp cao tham gia vào các cơ quan Chính phủ và các Bộ chủ chốt; thành lập Ban Thanh tra Quân sự hỗn hợp từ TW xuống Quân khu và các Tỉnh; đưa thêm các lực lượng đặc biệt Mĩ để cùng lực lượng đặc biệt Sài Gòn tăng cường cho vùng biên giới; đẩy mạnh các hoạt động tiến công bí mật ra miền Bắc Việt Nam, Lào, kể các những hoạt động biệt kích bằng không quân, nếu tình hình Nam Việt Nam tiếp tục xấu đi Mĩ sẽ ném bom miền Bắc để gây áp lực.

Những kiến nghị của phái đoàn Taylo (11/1961) chính là sự bổ sung vào những chủ trương do phái đoàn Stalây (7/1961) để trở thành một kế hoạch hành động tương đối hoàn chỉnh của Mĩ trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam. Vì vậy, kế hoạch này được gọi là “Kế hoạch Stalây – Taylo”, gồm 3 giai đoạn:

+ Giai đoạn I: dự định trong 18 tháng (từ giữa 1961 đến cuối 1962) cơ bản bình định xong miền Nam Việt Nam bằng cách triển khai mạnh mẽ việc tập trung dân vào 16.000 ấp chiến lược/17.000 ấp của toàn miền Nam, nhằm triệt phá hết các cơ sở cách mạng ở nông thôn; phát triển quân đội Sài Gòn gồm quân chính quy, bảo an và dân vệ, đồng thời tăng cường lực lượng yểm trợ Mĩ nhằm tiêu diệt LLVT cách mạng miền Nam; thiết lập hệ thống cứ điểm chốt chặn ở biên giới và giới tuyến quân sự tạm thời, tăng cường tuần tra, kiểm soát vùng biển để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam; đẩy mạnh các hoạt động tình báo, gián điệp, biệt kích, chiến tranh tâm lý.v.v. chống phá miền Bắc, hỗ trợ cho nỗ lực bình định miền Nam.

+ Giai đoạn II: dự kiến trong năm 1963, củng cố những kết quả của “giai đoạn I”, bằng cách tập trung vào việc khôi phục kinh tế miền Nam, hoàn tất chương trình bình định, tiếp tục tăng cường thêm quân đội Sài Gòn, đẩy mạnh các hoạt động gây rối, phá hoại miền Bắc.

+ Giai đoạn III: dự kiến trong hai năm 1964 – 1965, hoàn tất các mục tiêu của chiến lược chiến tranh đặc biệt bằng việc chuyển hẳn trọng tâm sang phát triển kinh tế miền Nam, trong khi đó vẫn tiếp tục tăng cường nguỵ quân, làm cho miền Nam trở thành một quốc gia mạnh về quân sự, phồn vinh về kinh tế của “thế giới tự do”.

Trong 3 giai đoạn trên đây, Mĩ cho rằng “giai đoạn I” có tầm quan trọng và có tính quyết định nhất. Và cũng cần thấy thêm rằng, đối với Mĩ, việc tiến hành “Chiến tranh đặc biệt”, ngoài mục đích tiêu diệt cách mạng miền Nam, còn nhằm mục đích rút kinh nghiệm để đàn áp phong trào dân tộc ở các nước khác trên thế giới.

Để đạt được những mục tiêu của “giai đoạn I” của Kế hoạch Stalây – Taylo, trước hết Mĩ tăng viện trợ tài chính để nâng số nguỵ quân đạt tới ưu thế 20 chọi 1. Viện trợ Mĩ tăng dần, từ 321,7 triệu đô la (đó có 80 triệu đô la vũ khí) trong tài khoá 1961 – 1962, lên 675 triệu đô la (100 triệu đô la vũ khí) trong tài khoá 1962 – 1963. Năm 1960, quân chính quy của Diệm là 15 vạn, đến năm 1962 là 36,2 vạn, chưa kể 17,4 vạn lực lượng bảo an và 128 đại đội dân vệ ở khắp các ấp, xã; đồng thời trang bị cho quân đội Sài Gòn nhiều vũ khí hiện đại nhất, như máy bay, xe thiết giáp và những phương tiện thông tin hiện đại, bảo đảm tính cơ động cao để đối phó có hiệu quả với chiến tranh du kích. Riêng năm 1962, Mĩ đưa vào miền Nam khoảng 500 máy bay, nhất là máy bay trực thăng, để thực hiện chiến thuật mới là chiến thuật đánh dài tay và chớp nhoáng bằng trực thăng vận, thiết xa vận.

Đội quân nguỵ do hệ thống cố vấn Mĩ chỉ huy. Tháng 3/1961, Mĩ đưa vào miền Nam hơn 400 lính thuộc lực lượng đặc biệt và 100 cố vấn quân sự, 1.600 chuyên gia giúp chính quyền Ngô Đình Diệm mở rộng, cải tạo quân ngụy. Tổng số quân Mĩ ở miền Nam từ 1.077 tên (1960) lên 10.960 tên (1962), rồi 22.000 tên (1963) và 26.200 tên (cuối 1964). Tháng 8/1962, Mĩ lập Bộ chỉ huy quân sự Mĩ (MACV) tại Sài Gòn do tướng Hackin chỉ huy thay cho phái đoàn MAAG. Mĩ triển khai các đơn vị hỗn hợp đặc biệt Mĩ – Ngụy ở nhiều căn cứ bố trí dọc biên giới Việt – Lào – Campuchia nhằm chống sự xâm nhập của quân chủ lực miền Bắc, phá rối các đường hành lang và các vùng căn cứ của cách mạng. Trên vùng biển, địch tổ chức các đơn vị hải quân tuần tiễu, dùng cả không quân để kiểm soát chặt chẽ việc đi lại.

Để tăng cường khả năng chỉ huy và tận dụng được lực lượng ngụy quân trong công tác “bình định”, ngay từ tháng 4/1961, hệ thống tổ chức chiến trường theo từng “quân khu” được chuyển thành “vùng chiến thuật”. Mỗi vùng chiến thuật do một quân đoàn chủ lực đảm nhiệm với đủ thành phần các quân địa phương, quân, binh chủng yểm trợ, như pháo binh, công binh, thiết giáp, biệt động, biệt kích, không quân, hải quân, tiếp vận,… Dưới các “vùng chiến thuật” là các “khu chiến thuật”; tiếp đó là các “tiểu khu” (tỉnh), chi khu (quận, huyện) và “phân chi khu” (xã); riêng Sài Gòn được tổ chức thành “Biệt khu Thủ đô”.

Biện pháp thứ hai là phải dập tắt phong trào cách mạng ở nông thôn, tách nhân dân ra khỏi các lực lượng du kích, triệt hạ nguồn tiếp tế và làm chỗ mất ẩn náu của du kích, bằng cách lập một hệ thống “Ấp chiến lược”, coi đây là “quốc sách” và là “xương sống” của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Theo quan điểm của Mĩ – Diệm, quốc sách “Ấp chiến lược” là một cuộc chiến tranh tổng lực trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế đến xã hội, tâm lý và gián điệp, nhằm mục đích cuối cùng là tiêu diệt các cơ sở cách mạng ở hạ tầng, đẩy du kích ra khỏi thôn ấp, xiết chặt ách kìm kẹp dân chúng.

Để chuẩn bị tư tưởng, tâm lý, niềm tin, cũng như “cảnh báo sự kiên quyết” của chính quyền Sài Gòn trong việc thực hiện quốc sách ấp chiến lược, Mĩ – Diệm đã tập trung mọi phương tiện tuyên truyền: sách, báo, tạp chí, khẩu hiệu, áp phích, đài phát thanh,…với quy mô lớn, nhằm cổ vũ cho chương trình ấp chiến lược trên toàn miền Nam, nào là “ấp chiến lược nhằm mục đích cao cả là xây dựng một xã hội mới, trong đó con người được hoàn toàn giải phóng về phương diện vật chất cũng như tinh thần”; nào là “ấp chiến lược vừa có tính chất kiến quốc, vừa có tính chất cứu quốc”; “ấp chiến lược là một công tác tổng hợp, gắn liền với đường lối, mục đích toàn bộ cuộc đấu tranh của dân tộc: đấu tranh chống cộng sản, đấu tranh chống chậm tiến, đấu tranh chống chia rẽ”; nào là “ấp chiến lược là cơ sở kiến tạo một nền văn minh mới”; nào là “ấp chiến lược không phải chỉ nhằm mục đích thuần tuý quân sự là bảo vệ an ninh, hay mục tiêu kinh tế là cải thiện dân sinh. Việc lập ấp chiến lược ngày nay nhằm mục đích cao cả là cải tạo toàn diện xã hội: biến đổi từ một xã hội cũ đầy rẫy bất công, thành kiến, hủ bại và sai lầm, tiến lên kiến tạo một xã hội mới, trong đó mỗi người sẽ có đủ cơ hội và điều kiện để phát huy khả năng tự tạo một đời sống hạnh phúc, nhân phẩm được tôn trọng”.

Từ đầu tháng 7/1961, Mĩ – Ngụy mở đợt thí điểm dồn dân lập ấp chiến lược ở hai trọng điểm là Vĩnh Long (Nam Bộ) và Quảng Ngãi (Trung Bộ) để rút kinh nghiệm. Tháng 8/1961, chương trình được triển khai rộng rãi trên quy mô toàn miền Nam với tên gọi “chiến dịch xây dựng nông thôn”. Đến ngày 17/4/1962, Quốc hội Sài Gòn thông qua Nghị quyết nâng chương trình lập ấp chiến lược lên hàng quốc sách và tập trung mọi nỗ lực cao nhất để thực hiện cho được các mục tiêu đã đặt ra; đồng thời Uỷ ban liên Bộ đặc trách Ấp chiến lược của Diệm còn đưa ra đề nghị “đưa ngày 17/4 lên ngày Quốc lễ, có tầm quan trọng ngang hàng với ngày Quốc khánh 26/10,…”. Ngô Đình Nhu, người trực tiếp điều hành chương trình ACL khẳng định: “Thôn ấp là vấn đề sinh tử, quyết định sự thắng lợi của chúng ta”.

Tiếp theo, ngày 19/10/1961, Ngô Đình Diệm tuyên bố tình trạng khẩn cấp, kéo dài thêm thời hạn quân dịch, gọi sĩ quan và binh lính trù bị nhập ngũ; tiến hành các cuộc hành quân càn quét, dồn dân với sự chi viện, yểm trợ hoả lực bằng các chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, lợi dụng phương tiện vận tải và thông tin liên lạc hiện đại để hành quân chớp nhoáng, đánh bất ngờ, đánh nhanh, rút nhanh. Riêng năm 1961, có 1.253 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên. Năm 1962, địch mở tới 20 chiến dịch lớn đánh vào vùng giải phóng nhằm tiêu diệt lực lượng du kích, gom dân lập ACL. Có những trận càn dài ngày như chiến dịch “Mặt trời mọc”, kéo dài 9 tháng ở miền Đông Nam Bộ, chiến dịch “Hải Yến” kéo dài 8 tháng ở Phú Yên.

Để đảm bảo cho sự chắc thắng của kế hoạch đặt ra, ngoài việc mời đoàn cố vấn chuyên về “các vấn đề hành chính và chính sách” do Tômxơn, chuyên gia về chống du kích của Anh ở Malaixia cầm đầu sang miền Nam giúp chính quyền Sài Gòn thực hiện quốc sách ACL, Mĩ – Diệm còn cử nhiều đoàn cán bộ bình định sang Malaixai và một số nước khác nghiên cứu, học tập kinh nghiệm chống chiến tranh du kích và dồn dân lập ACL.

Cần phải thấy rằng, ACL mà Mĩ – Diệm triển khai trong giai đoạn “Chiến tranh đặc biệt” là sự kế thừa và phát triển chính sách “dinh điền” và “khu trù mật” lên một mức cao, cả về quy mô, hình thức và thủ đoạn kìm kẹp đối với nhân dân miền Nam. Nếu “dinh điền” mới chỉ là những trại tập trung được xây dựng ở những vùng xa xôi, hẻo lánh để giam giữ những người kháng chiến và gia đình cách mạng xen kẽ với đồng bào Thiên Chúa giáo di cư; “khu trù mật” được dựng lên ở những khu vực thuận tiện giao thông cơ động, gần các căn cứ quân sự…để gom dân từ các địa bàn nhỏ lẻ, hiểm trở, đường sá đi lại khó khăn về tập trung quản chế; thì ACL được xây dựng rộng rãi ở khắp cả nông thôn đồng bằng, miền núi, kể cả vùng vành đai các đô thị để gom toàn bộ nhân dân miền Nam vào sinh sống tại đây. Đây là một điểm mới, một sự “phát triển hơn hẳn cả về lượng và chất” của ACL so với chính sách dinh điền và khu trù mật mà Mĩ – Diệm đã thực hiện trong những năm trước đó.

Mặc dù vấp phải sự chống trả quyết liệt và mạnh mẽ của quân và dân khắp các địa phương miền Nam, nhưng sau hơn 1 năm thực hiện quốc sách này, Mĩ – Diệm đã đạt được những kết quả nhất định. Theo tổng kết của Tômxơn, nếu vào tháng 7/1962, số ACL hoàn thành ở miền Nam là 2.559 ấp, thì đến tháng 12/1962 đã lên tới 4.080 ấp, đến tháng 8/1963 đã đạt tới 8.095 ấp; trong đó có những tháng đạt khá cao như tháng 9/1962 đạt 428 ấp, tháng 12/1962 đạt 530 ấp, tháng 2/1963 đạt 608 ấp, tháng 6/1963 đạt 646 ấp.

Mỗi ACL thực sự là một “pháo đài quân sự” bởi bao bọc chung quanh là 3 lớp hàng rào tre và hệ thống dây kẽm gai; giữa 2 hàng rào là hào rộng 2m, sâu 1,5m, có cắm chông và gài mìn. Muốn vào trong ấp phải vượt qua 3 hàng rào và 2 hào sâu kể trên. Sự liên lạc giữa bên ngoài và bên trong ấp là cực kỳ khó khăn. Bốn góc ACL có bót gác, tối đến các cổng ra vào đều đóng kín. Các ACL xung yếu có đồn lính đóng bên cạnh. Ở mỗi ACL có Ban Trị sự, đứng đầu là những tên ấp trưởng, ấp phó khét tiếng gian ác, kìm kẹp nhân dân bằng bộ máy quân sự hoá,… Do vậy, cả người tu hành sống dưới chế độ Mĩ – Diệm cũng phải thốt lên những lời ca than: “ACL như những chiếc nơm sắt, lớn và chắc”, là “cơn ác mộng khủng khiếp”.v.v.

Cùng với các biện pháp trên đây, chính quyền Ngô Đình Diệm ra sức vơ vét nhân lực, tài lực phục vụ cho chiến tranh, tăng cường thuế má làm cho giá cả hàng hoá lên cao, lập thêm thuế đảm phụ quốc phòng. Hơn thế nữa, chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục chính sách đàn áp, khủng bố nhân dân; duy trì và củng cố chế độ độc tài gia đình trị, thanh trừng những phần tử đối lập. Nhà giam của chính quyền Diệm luôn chật ních tù chính trị. Trung tâm cải huấn Thừa Thiên, số phòng ốc chỉ vừa đủ cho 600 can phạm, nhưng địch đã giam đến 700 người,… Vì vậy, từ khi bắt đầu thực hiện kế hoạch Stalây – Taylo, chính quyền Ngô Đình Diệm đã bị công kích, bị các nhóm thân Mĩ chống Diệm tiếp tục hoạt động chống đối. Vụ hai phi công trong quân đội Sài Gòn ném bom dinh Độc Lập ngày 27/2/1962 là một minh chứng.

Trên lĩnh vực tôn giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm đẩy mạnh chính sách kỳ thị đối với Phật giáo. Chính sách này vốn đã được tiến hành ngay từ khi chính quyền Diệm vừa được thành lập. Nhiều gia đình tín đồ Phật giáo bị bắt phải “cải đạo”, bị bắt di dân, nhất là tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Kháng thư đề ngày 23/9/1961 của Khuôn hội Phật giáo xã Sơn Mĩ (Quảng Ngãi) cho biết: “Trong thời gian gần đây, cứ theo các bức báo cáo có ông thầy Du người Công giáo ở Phú Hoà về giảng đạo và dạy thuyết duy linh tại xã Sơn Mĩ, đi đến thôn, ông ấy dùng lời lẽ ép người hội viên chính thức của Phật giáo, buộc họ ký đơn tình nguyện vào Thiên Chúa giáo, nếu không thì dùng biện pháp chính quyền khủng bố, như ghép vào tội tình nghi, lướng hướng, bắt học tập, thu giấy căn cước và thẻ chứng minh của Phật giáo, làm cho sự sinh hoạt trở ngại”. Hoặc theo “Biên bản Hội nghị rộng rãi” ngày 13/7/1961 của Khuôn hội Phật giáo Hoà Quang quận Tuy Hoà, thì: “Vào ngày 6 và 7/7/1961, liên gia mời toàn thể đồng bào trong thôn tập trung tại 3 địa điểm…nhưng đến nơi không học tập mà lại được tuyên bố rằng: Ai chịu ký tên vô Công giáo thì sẽ được về nhà làm ăn, bằng không thì ở lại học tập mãi bao giờ chịu ký mới về”. Bằng mọi cách, chính quyền Diệm đã ép buộc tín đồ Phật giáo theo Thiên Chúa giáo. Cán bộ xã, thôn của Diệm đã dùng lời lẽ hăm doạ tín đồ Phật giáo: “Bây giờ anh vô thì không có gì hết mà không vô thì tôi cho anh biết nội trong năm nay không biết tháng nào anh cũng bị người ta, anh có biết không? Ông quận trưởng cũng công giáo, chi công an cũng công giáo, đại diện xã cũng công giáo, tôi thường đi nhà thời huyện, tôi biết người ta ngó chăm chăm trong đạo Phật của anh và nói chung trong gia đình đạo Phật nhiều hơn…những người vô công giáo nếu truyền đơn gạc rải một bên không sao, chứ Phật giáo người ta túm cổ”. Hoặc có trường hợp tín đồ Phật tử bị thủ tiêu bằng cách chôn sống, như trường hợp các ông Nguyễn Chuyển, Đỗ Thìn ở thôn Mậu Lâm xã Hoà Quang quận Tuy Hoà.

Như vậy, trên lĩnh vực tôn giáo, điều không chối cãi được là “bất chấp mọi điều kiện lịch sử và tâm lý dân tộc, Mĩ – Diệm đã có nhiều cố gắng hướng “công giáo hoá” nhân dân ta, biến Thiên Chúa giáo thành quốc giáo ở miền Nam”. Chính Thượng nghị sĩ Manxphin (Mansfield) người đã từng ủng hộ Ngô Đình Diệm một cách nhiệt thành, cũng phải thừa nhận: “Hiện nay, chẳng những dư luận báo chí Mĩ, mà phần lớn các nhân vật trong chính phủ Mĩ đều cho rằng chế độ ông Diệm là một chế độ độc tài, gia đình trị, công giáo trị”.

Dã man hơn nữa, Mĩ bắt đầu sử dụng chất độc hoá học để phát quang các vùng căn cứ cách mạng, các đường hành lang dọc theo dải Trường Sơn từ Bắc vào Nam. Từ tháng 8/1961 đến tháng 5/1964, Mĩ đã rải chất độc hoá học trên 200 lần xuống nhiều vùng, phá huỷ trên 300.000 ha lúa và hoa màu.

Chính sách thống trị của Mĩ – Diệm, đặc biệt là chính sách dồn dân, lập ACL, chính sách kỳ thị tôn giáo như đã trình bày, càng làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam với Mĩ – Diệm thêm sâu sắc, ngọn lửa đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam, do vậy, càng phát triển trên một quy mô rộng lớn hơn so với trước.

2. Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.

a) Chủ trương của Đảng:

Trước những thắng lợi dồn dập của cách mạng miền Nam từ sau ngày Đồng Khởi, tháng 1/1961, Hội nghị Bộ Chính trị TW Đảng họp, đã cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng về phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam.

Về tình hình chính trị miền Nam, Bộ Chính trị nhận định: “Thời kỳ tạm thời ổn định của chế độ Mĩ – Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu… Đến nay, cách mạng miền Nam đương phát triển theo con đường tiến lên tổng khởi nghĩa với những đặc điểm mới và khả năng hoà bình phát triển của cách mạng miền Nam không còn nữa… Hình thái du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện… Hình thái du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần ấy mở ra một cao trào cách mạng và ngày càng phát triển mạnh mẽ”. Tuy nhiên, do Mĩ – Diệm quyết tiêu diệt cách mạng bằng bạo lực, nên phương hướng giành thắng lợi sắp tới phải bằng “cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa của nhân dân…để lật đổ chính quyền Mĩ – Diệm, giải phóng miền Nam”.

Về các hình thức và phương châm đấu tranh, Bộ Chính trị cho rằng, nếu như trong Nghị quyết HNTW lần thứ 15, cũng như trong các Chỉ thị tiếp theo của TW, vấn đề xây dựng và sử dụng các LLVT tuyên truyền tới một mức độ nhất định để tự vệ và để phục vụ cho đấu tranh chính trị. Đấu tranh chính trị là chủ yếu, đấu tranh quân sự là để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị. Nhưng tình hình mới, tương quan lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi, cần phải chuyển phương châm đấu tranh: “Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự”.

Song do đặc điểm của phong trào cách mạng miền Nam phát triển không đều, so sánh lực lượng giữa ta và địch trên từng vùng cũng khác nhau, cho nên phải vận dụng phương châm đấu tranh chính trị song song với đấu tranh vũ trang linh hoạt, phù hợp từng vùng. Bộ Chính trị đề ra phương châm công tác 3 vùng như sau: “Ở các vùng rừng núi, lấy đấu tranh quân sự làm chủ yếu và đề ra nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch để mở rộng thêm căn cứ và xây dựng lực lượng của ta. Ở các vùng đồng bằng, đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự ngang nhau, tuỳ tình hình cụ thể từng nơi ở đồng bằng mà cân nhắc mức độ giữa hai hình thức, và mức độ tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Ở các vùng đô thị, lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu, gồm cả hai hình thức hợp pháp và không hợp pháp”.

Cũng cần thấy rằng, trong giai đoạn này, địch tuy bị suy yếu về chính trị, nhưng lực lượng quân sự của chúng hầu như còn nguyên vẹn và đang được Mĩ phát triển về quân số cũng như về trang bị và đang tìm mọi cách để phản công quyết liệt lực lượng cách mạng. Vì vậy, Bộ Chính trị còn nhấn mạnh: “Nhiệm vụ công tác cách mạng miền Nam là ra sức xây dựng mau chóng lực lượng của ta về cả hai mặt chính trị và quân sự, tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng, phát động một phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của quần chúng, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm tan rã chính quyền và lực lượng địch trên một phạm vi ngày càng rộng lớn; tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở đô thị; tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền Mĩ – Diệm, giải phóng miền Nam”.

Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị ngày 31/1/1961 là sự chỉ đạo chiến lược rất quan trọng đối với cách mạng miền Nam. Đó là sự vận dụng sáng tạo các Nghị quyết của Hội nghị TW Đảng lần thứ 15 và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III một cách sáng tạo trong những điều kiện mới, đề ra được những vấn đề cơ bản về đường lối và phương pháp cách mạng cho miền Nam trong giai đoạn mới, tiếp tục đưa cách mạng tiến lên.

Suốt năm 1961 và đầu năm 1962, các tổ chức chính trị, các đoàn thể quần chúng của các giai cấp, các giới đã lần lượt thành lập và gia nhập Mặt trận. Cho đến tháng 10/1962, Mặt trận đã có trên 20 tổ chức chính trị lớn: Hội Lao động giải phóng, Hội Nông dân giải phóng, Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng, Hội Phụ nữ giải phóng, Hội Liên hiệp sinh viên – học sinh giải phóng, Hội Văn nghệ giải phóng, Hội các nhà báo yêu nước và dân chủ, Hội luật gia dân chủ, Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng, Hội những người kháng chiến cũ, Nhóm công – thương gia chống Mĩ – Diệm, Nhóm binh sĩ trở về với nhân dân đấu tranh chống Mĩ – Diệm, Nhóm những người đấu tranh cho hoà bình thống nhất độc lập của Tổ quốc Việt Nam, các Hội quần chúng có tính chất tôn giáo của các tín đồ Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, các Đảng xã hội cấp tiến của trí thức, Đảng Dân chủ của tư sản dân tộc.v.v. Trong các thành viên của Mặt trận có những Hội có tới hàng chục vạn hội viên, như Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng; có những hội hoạt động mạnh mẽ trên trường quốc tế như Hội Lao động giải phóng, Hội Phụ nữ giải phóng…

Sự phát triển của lực lượng cách mạng còn thể hiện ở chỗ Mặt trận Dân tộc đã nhanh chóng xây dựng được cơ sở của mình từ xã đến quận, tỉnh, miền. Đến tháng 10/1962, khắp các địa phương từ Quảng Trị tới Cà Mau, kể cả Tây Nguyên, đều có Uỷ ban của Mặt trận. 38/41 tỉnh, thành miền Nam đã có Uỷ ban Mặt trận ra mắt nhân dân.

Ngày 15/5/1961, Quân Giải phóng miền Nam chính thức thành lập tại Chiến khu Đ (Tây Ninh). “Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam là một bộ phận của Quân đội Nhân dân Việt Nam do Đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo… Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam kế tục truyền thống anh dũng, tinh thần quật khởi và đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam anh hùng, kế tục truyền thống vẻ vang phục vụ nhân dân của Quân đội Nhân dân Việt Nam”. Ngày 1/1/1962, Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam tuyên bố thành lập và đứng vào hàng ngũ Mặt trận Dân tộc giải phóng. Sự kiện này càng củng cố uy tín và sự lãnh đạo của Mặt trận đối với phong trào cách mạng miền Nam. Ngày 17/11/1961, Mặt trận Dân tộc giải phóng đã ra lời kêu gọi toàn thể nhân dân miền Nam kiên quyết đứng lên đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ, đập tan chế độ Ngô Đình Diệm để tiến tới thống nhất nước nhà.

Qua năm 1962, trước việc Mĩ – Diệm đẩy mạnh việc dồn dân lập ACL, đưa cố vấn quân sự và phương tiện chiến tranh vào miền Nam ngày càng nhiều, tháng 2/1962, Bộ Chính trị họp bàn về công tác trước mắt của cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị nhận định sự can thiệp mạnh mẽ hơn của đế quốc Mĩ có gây thêm nhiều khó khăn cho cách mạng miền Nam, làm cho cuộc chiến tranh ngày càng trở nên ác liệt, nhưng thực tế, so sánh lực lượng giữa ta và địch căn bản chưa có gì thay đổi. Bộ Chính trị đề ra chủ trương trước mắt của ta là: “Kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh chính trị, quân sự, giành và giữ thế chủ động, đẩy địch vào thế bị động hơn nữa, tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, ra sức phá hoại kế hoạch Stalây – Taylo, mở rộng hơn nữa phong trào giải phóng dân tộc, tăng cường chặt chẽ hơn nữa khối đoàn kết dân tộc, khơi sâu hơn nữa mâu thuẫn nội bộ của địch, tranh thủ mạnh mẽ sự ủng hộ và đồng tình của lực lượng hoà bình, dân chủ, độc lập dân tộc và CNXH trên thế giới chống sự can thiệp vũ trang quy mô của đế quốc Mĩ vào miền Nam Việt Nam, tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn nữa”.

Từ ngày 16/2 – 3/3/1962, Mặt trận DTGPMN họp Đại hội lần thứ I với sự tham gia của hơn 100 đại biểu gồm đủ mọi tầng lớp xã hội, tôn giáo, dân tộc thuộc nhiều xu hướng chính trị khác nhau. Đại hội đã thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ của Mặt trận trong tình hình mới, các chính sách lớn của Mặt trận về các vấn đề hoà bình, trung lập, vấn đề dân tộc, ruộng đất, các chính sách đối với giai cấp tư sản, đối với trí thức, ngoại kiều, tôn giáo, binh sĩ và nhân viên nguỵ quyền miền Nam.

Đại hội đã bầu ra Uỷ ban TW chính thức của Mặt trận do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.

Đại hội ra một bản Tuyên bố khẳng định nhiệm vụ chung của Mặt trận là: “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mĩ, thành lập một chính quyền liên minh dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới”.

Sau Đại hội, Mặt trận công bố 4 chủ trương cứu nước khẩn cấp trước tình hình đế quốc Mĩ ngày càng leo thang vũ trang xâm lược miền Nam nước ta:

1) Đế quốc Mĩ phải đình chỉ chiến tranh xâm lược miền Nam

2) Giải tán các ACL

3) Thành lập ở miền Nam một chính phủ liên hiệp dân tộc

4) Thi hành đường lối đối ngoại hoà bình, trung lập.

b) Bước đầu đánh thắng kế hoạch Stalây – Taylo (1961 – 1962)

Tiến hành “Chiến tranh đặc biệt”, Mĩ và chính quyền Diệm sử dụng lực lượng quân sự là chủ yếu, và về mặt lực lượng quân sự, vũ khí, chúng có ưu thế tuyệt đối so với lực lượng cách mạng. Nhưng vì đây là loại hình chiến tranh của chủ nghĩa thực dân mới nên chúng không thể không dùng các thủ đoạn chính trị, kinh tế, văn hoá để lừa bịp và bóc lột nhân dân, đó là chỗ yếu căn bản của địch; trong khi về mặt này, lực lượng cách mạng lại có ưu thế tuyệt đối. Trong tình hình so sánh lực lượng chính trị, quân sự như vậy, để chống lại “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ, dưới ánh sáng của NQĐH Đảng lần thứ III và NQ của Bộ Chính trị (1/1961 và 2/1962), quân và dân miền Nam tiếp tục phát triển cuộc chiến tranh du kích rộng rãi và mạnh mẽ, đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài, vừa đấu tranh vũ trang, vừa kết hợp với đấu tranh chính trị.

Trên chiến trường Đông Nam Bộ, LLVT cách mạng tiến công một loạt đồn bốt của địch cỡ trung đội, đại đội, uy hiếp các thị trấn Gò Dầu, Trảng Bàng, Bến Cầu. Ở Tây Nguyên, hoạt động du kích cũng diễn ra khá mạnh mẽ. Đêm 30/8/1961, quân giải phóng tỉnh Kontum tập kích quận lỵ Đắc Hà và bắt sống hàng trăm tên địch, rồi thừa thắng bao vây, bức rút nhiều đồn bốt từ Gia Vụt đến Măng Đen, diệt một số đồn trên đường 14 từ Kontum đi Động Tranh. Tiếp theo, ngày 18/9/1961, quân ta tiến công Phước Vĩnh và thị xã Phước Thành, diệt và đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn ngụy, thu 500 súng các loại, làm chủ thị xã.

Phối hợp với đòn tiến công quân sự, mũi tiến công chính trị tiếp tục diễn ra quyết liệt ở nông thôn và đô thị. Quần chúng kiên quyết chống lại chính sách dồn dân, lập ACL của địch, đấu tranh chống địch hành quân càn quét, bắn phá, triệt phá xóm làng, tàn sát dân thường. Đồng bào nông thôn biểu tình, kéo vào thị trấn, thị xã và thành phố tố cáo tội ác của địch, đòi bồi thường tính mạng và tài sản của nhân dân. Năm 1961, có đến 33,8 triệu lượt người tham gia các cuộc đấu tranh, trong đó có cả gia đình ngụy quân, ngụy quyền làm binh vận chống địch bắt lính. Tác dụng của phong trào đấu tranh của quần chúng đã làm cho 14.500 lính ngụy đào ngũ.

Năm 1962, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị tiếp tục phát triển với những thắng lợi mới. Ở Nam Bộ, tháng 2/1962, Mĩ – ngụy tập trung 9 tiểu đoàn chủ lực kết hợp với các đơn vị địa phương quân, mở cuộc càn quét vào địa bàn U Minh Hạ, phục vụ cho kế hoạch dồn 6 vạn dân ở đây vào ACL. Trước sự càn quét ác liệt của địch, các cơ sở cách mạng đã tập hợp hàng ngàn quần chúng, tổ chức xuống đường, kéo đến trụ sở ngụy quyền, vào các đồn bốt, “gặp gỡ” chỉ huy cuộc hành quân để phản đối hành động bắn phá, giết chóc do binh sĩ ngụy gây ra cho nhân dân, đòi chấm dứt hành quân; mặt khác dùng một bộ phận LLVT bất ngờ tấn công căn cứ Đầm Dơi, Cái Nước,… loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm binh sĩ ngụy. Tháng 3/1962, LLVT 6 tỉnh Bình Dương, Bình Long, Phước Tuy, Biên Hoà, Tây Ninh và Gia Định, quần chúng nhân dân nổi dậy đấu tranh chính trị phối hợp chống trả quyết liệt các cuộc hành quân bình định mang mật danh “Mặt trời mọc” của hơn 8.000 quân ngụy.

Ở Khu V, đầu năm 1962, các LLVT và quần chúng nhân dân đã liên tiếp mở những cuộc tiến công và nổi dậy giành được những thắng lợi quan trọng. Quân dân Phú Yên đánh bại cuộc hành quân “Hải Yến”. Quân dân Bình Định bẻ gãy cuộc hành quân “Đồng Tiến”, phá vỡ kế hoạch xây dựng ACL của Mĩ – ngụy ở Bình Định. Phối hợp với mũi tấn công quân sự, quân dân các địa phương nổi dậy đấu tranh chính trị và binh vận, phá banh, phá rã được một số ACL. Đến tháng 5/1962, đã có 15 vạn nhân dân thuộc các huyện Bình Sơn, Nghĩa Hành, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa (Quảng Ngãi) giành được quyền làm chủ; 157 thôn ấp của các huyện Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mĩ, Bình Khê (Bình Định) và 125 thôn thuộc 25 xã với gần 55 vạn dân của Phú Yên được giải phóng; 24 ACL ở Quảng Nam bị phá banh, phá rã.

Thắng lợi bước đầu của phong trào phá ACL ở miền Nam trong năm 1961 và 6 tháng đầu năm 1962 là rất quan trọng, song quân và dân miền Nam cũng phải chịu nhiều tổn thất: 36.200 cán bộ, chiến sỹ hy sinh và bị thương; ở miền Tây Nam Bộ, số ấp giải phóng từ 2.543 (1960) xuống còn 1.520 (6/1962); ở Trung Nam Bộ, từ 73 xã giải phóng (đầu 1962) xuống còn 63 xã (6/1962); tại đồng bằng Khu V, chỉ còn 904 thôn có cơ sở với 700 đảng viên trong tổng số 3.829 thôn trên toàn Khu,… Nguyên nhân của tình trạng trên là do LLVT địa phương còn hạn chế về số lượng, vũ khí, trang bị và kinh nghiệm chống càn; nhiều địa phương hoạt động quân sự và chính trị chưa kết hợp với nhau một cách chặt chẽ, chưa tạo điều kiện cho chủ lực bám trụ hoạt động dài ngày; trong lúc đó khối chủ lực chưa thật mạnh, chưa có những đòn tiêu diệt có ý nghĩa, nhất là việc chống các chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch. Do vậy, tại nhiều địa phương, sau khi chủ lực rút đi, lực lượng tại chỗ không giữ được địa bàn; ngụy quân, ngụy quyền nhanh chóng tái lập ACL, kìm kẹp nhân dân chặt chẽ hơn.

Mặt khác, để nhanh chóng khắc phục khó khăn, nửa cuối năm 1962, TW Cục đã cử nhiều cán bộ xuống các tỉnh; Ban Quân sự Miền cũng đưa cán bộ xuống bám địa bàn, trực tiếp chỉ đạo. Nhờ những hoạt động khẩn trương và phù hợp này, phong trào đấu tranh trên toàn miền Nam dần dần được “xốc” lại và giành được những kết quả mới.

Ngày 4/8/1962, tại Khu V, bộ đội Bình Thuận tiến công thị xã Hàm Tân, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy, phá rã các ACL Tam Tân, Gò Đình, Cử Cạn, Tân Hiệp. Ở Nam Bộ, 3 tháng cuối năm 1962, quân dân các tỉnh Cà Mau, Mĩ Tho, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Long An, Tây Ninh, Bình Dương cùng một số đơn vị chủ lực Miền đánh bại các cuộc hành quân bình định của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, bảo vệ vững chắc địa bàn giải phóng và căn cứ. Cùng thời gian trên, tiểu đoàn 514 của Mỹ Tho tổ chức đánh địch trên lộ 4; bộ đội huyện Cai Lậy và du kích Mỹ Hạnh Đông liên tục tổ chức chống càn, làm thất bại kế hoạch dồn dân lập ACL của địch ở Mỹ Tho.

Được đòn quân sự tạo thế, phong trào đấu tranh chính trị và binh vận chống càn quét, chống dồn dân lập ACL đã thu hút hàng triệu lượt người tham gia. Với khẩu hiệu “ngày làm đêm phá”, nhân dân và du kích đã phối hợp phá các ACL bằng cách ban đêm dân trong ấp tự nhóm lửa đốt nhà, nổi trống, mõ và hô hào “có Việt cộng xâm nhập”, làm xáo động an ninh, tạo điều kiện cho du kích từ ngoài đột nhập vào ấp diệt ác, giải tán lực lượng bảo vệ và ban trị sự ấp, hỗ trợ cho nhân dân phá rào, san lấp hào, phá ấp. Đối với vùng đồng bằng sông nước, như Châu Phú (Châu Đốc), các cơ sở bí mật đã huy động hàng trăm ghe xuồng chở người biểu tình chạy dọc các luồng lạc thị uy, phản đối hành động càn quét, gom dân lập ACL của Mĩ – ngụy.

Song song với phong trào phá ACL, nét nổi bật trong cuộc đấu tranh giành dân và giữ dân năm 1962 là các địa phương sau khi phá ACL, phá kìm, đã khẩn trương xây dựng các ấp, xã thành các “làng chiến đấu”. Điển hình như ở Cần Thơ, sau khi phá xong ACL Đông Phước, nhân dân đã tự nguyện dỡ nhà, chặt tre, vót 6 triệu cây chông, đặt 29.460 hầm chông lộ thiên, 13.000 hầm chông bí mật và xây dựng hệ thống công sự bố phòng xung quanh, bố trí lực lượng sẵn sàng chiến đấu chống trả các cuộc hành quân càn quét của địch.

Mặt khác, ta đã động viên hàng ngàn thanh niên tòng quân xây dựng LLVT giải phóng. Mỗi tỉnh lúc này đều có 2 – 3 đại đội hoặc tiểu đoàn bộ đội địa phương, các huyện đều có 1 – 2 trung đội và ở dưới xã là dân quân du kích gồm hàng chục vạn người cầm súng. Trước sự phát triển nhanh chóng của LLVT, tháng 5/1962, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu V quyết định thành lập 3 trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân khu (lúc ấy gọi là các Công Trường): Trung đoàn 1 hoạt động ở Quảng Nam; Trung đoàn 2 hoạt động ở Quảng Ngãi và KonTum; Trung đoàn 3 hoạt động ở Bình Định, Phú Yên và Gia Lai.

Cuộc đấu tranh dồn dân lập ACL diễn ra dai dẳng, ác liệt. Địch dồn dân lập ACL, ta lãnh đạo nhân dân phá ấp, địch lập lại, ta lại phá, giằng co hàng chục lần mới giành thắng lợi. Tính đến cuối năm 1962, bằng sự kết hợp sức mạnh tổng hợp 3 mũi giáp công, quân và dân miền Nam đã phá được 2.665 ACL; trong đó có 484 ấp bị phá dứt điểm, 115 ấp sau khi phá đã xây dựng được thành làng chiến đấu, giải phóng được 6,5 triệu dân/14 triệu dân.

Ở đô thị, trong hai năm 1961 – 1962, đấu tranh chính trị cũng diễn ra, tuy không rộng lớn như ở nông thôn, nhưng cũng khá mạnh. Trong năm 1961, có 4.416 cuộc đấu tranh với 294.000 lượt người tham gia, trong đó có 147 cuộc đấu tranh lớn đòi cải thiện đời sống, tăng lương, chấm dứt đuổi thợ và giảm thợ. Nổi bật nhất là cuộc đình công chiếm xưởng của 400 công nhân hãng dầu Mĩ Xtanvac ở Sài Gòn ngày 4/9/1961, được hàng vạn công nhân cao su Biên Hoà, Thủ Dầu Một, trên 100 nghiệp đoàn ở Sài Gòn – Chợ Lớn, 40.000 lái xe và bà con nông dân đã lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh. Cuộc đấu tranh kéo dài 3 tháng làm tê liệt 100 trạm bán dầu, khiến chủ hãng thiệt hại 3 – 5 triệu đồng mỗi ngày.

Sang năm 1962, phong trào công nhân, lao động miền Nam tiếp tục phát triển mạnh. Trong 5 tháng đầu năm 1962, công nhân Sài Gòn đã tiến hành 82 cuộc đấu tranh, trong đó có 10 cuộc đấu tranh quyết liệt với hình thức đình công, bãi công. Cuộc đấu tranh nổi bật là cuộc bãi công của 800 công nhân hãng dệt Vimytexdip ngày 17/2/1962, đòi sửa đổi chế độ làm việc đúng với luật lao động. Mặc dù bị khủng bố, hàng trăm công nhân bị sa thải, nhưng công nhân vẫn tiếp tục kiên quyết đấu tranh với chủ hãng. Cuối cùng, chủ hãng phải huỷ bỏ lệnh sa thải 100 công nhân và hứa giải quyết các yêu sách do công nhân nêu ra.

Trong năm 1962, phong trào học sinh, sinh viên diễn ra sôi nổi. Nổi bật nhất là phong trào đấu tranh kéo dài trong nhiều tháng của sinh viên, học sinh chống vụ án Mĩ – Diệm xử Lê Quang Vịnh. Ngày 23/5/1962, Toà án Quân sự Đặc biệt Sài Gòn tuyên án tử hình Lê Quang Vịnh. Tại toà, Giáo sư Lê Quang Vịnh, người thanh niên 27 tuổi, đã nói thẳng vào mặt bọn quan toà bán nước: “Tôi tiếc là không giết được kẻ cầm đầu bọn xâm lược” và hô to: “Đả đảo pháp luật phát xít”, “Tinh thần bất khuất của sinh viên, học sinh muôn năm”. Căm phẫn trước pháp luật dã man của Mĩ – Diệm, gần 1 vạn sinh viên, học sinh và phụ huynh ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An họp mít tinh, biểu tình dài 5 – 6 km phản đối vụ án. Làn sóng phản đối mạnh mẽ dấy lên liên tiếp khắp trong nước và thế giới, đòi xoá bản án đối với các chiến sĩ yêu nước. Sau này, trước sức ép của dư luân, địch phải giảm án cho Lê Quang Vịnh xuống thành chung thân.

Ngoài ra, Mặt trận DTGP đã cử nhiều đoàn đại biểu đi thăm các nước XHCN, tham gia nhiều hội nghị quốc tế, đặt quan hệ ngoại giao với một số nước nhằm nâng cao uy tín của Mặt trận và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam.

Cùng với phong trào đấu tranh chung của nhân dân miền Nam, từ cuối năm 1961, đầu năm 1962, các tổ chức Phật giáo, từ khuôn hội, quận hội, tỉnh hội, tổng hội gửi các cấp chính quyền Ngô Đình Diệm từ địa phương đến TW hàng loạt đơn khiếu nại. Nội dung đơn vạch rõ nỗi thống khổ của tín đồ Phật giáo trước chính sách khủng bố của chính quyền Diệm, đòi chính quyền Diệm thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo. Đơn của Chi hội trưởng Chi hội Phật giáo Tuy Hoà (18/7/1961) gửi Quận trưởng Tuy Hoà tố cáo chính quyền địa phương “khủng bố, bắt ép phải bỏ Phật giáo mà vô Công giáo, nếu không nghe theo thì gán cho tội này, tội nọ…nhất là bị oan than và theo cộng sản.v.v.”. Đơn của Giáo hội Tăng già Bình Định gửi Quận trưởng Tuy Phước tố cáo chính sách bất công của chính quyền Diệm trong chính sách di dân: “Nếu phải đi di dân theo tiêu chuẩn thì dù Phật giáo hay Công giáo cũng thế mới công bằng và hợp lý, chứ tại sao khi ở Phật giáo thì có tiêu chuẩn đi di dân mà cũng con người ấy khi vào Công giáo thì mất tiêu chuẩn”.

Đặc biệt, ngày 20/2/1962, Hội Phật giáo Trung phần đã gửi kháng thư đến Ngô Đình Diệm và Quốc hội của y, vạch rõ chính sách khủng bố, áp bức, giết hại Phật giáo đồ của chính quyền Diệm đang diễn ra khắp nơi: “Những kẻ chủ động vừa có quyền hành tại các xã, vừa là nhân viên ban truyền giáo công giáo tiến hành, đã lợi dụng quyền hành nhà chức trách để bắt nạt, khủng bố dân lành. Có người bị chôn sống như trường hợp ông Nguyễn Chuyển, thôn Mậu Lâm, mà toà án Tuy Hoà đã chứng minh khi bới lên, có kẻ bị hành hạ bị tắt thở tại Phú Yên, có người đập đầu vào nhà để chết vì uất ức hay tự tử vì bất công ở Bình Định. Cho đến việc lợi dụng sự bất an để sát hại hội viên thuần thành của chúng tôi như ở Quế Sơn, Quảng Nam”. Kháng thư khẳng định: “Hàng ngày, chúng tôi nhận được thư từ kêu van từ nhiều nơi gởi về tỏ sự khủng bố, áp bức, bất công ở hạ tầng đối với Phật giáo chúng tôi không kể xiết” và yêu cầu Ngô Đình Diệm “công minh xét đoán gấp những nguyện vọng khẩn thiết trên đây cho hàng Phật tử”.

Trong kháng thư gửi Quốc hội Diệm, sau khi vạch rõ nỗi thống khổ của tín đồ Phật giáo do chính sách kỳ thị tôn giáo gây nên, giới lãnh đạo Phật giáo cho hay đã đến lúc tôn giáo của họ cần phải được bảo vệ: “Tình trạng giết chóc, bắt bớ, đàn áp bất công ở hạ tầng đã gây nên sự hoang mang, khủng khiếp trong hàng Phật tử chúng tôi và làm cho họ gần như mất hết sự tin tưởng cần thiết.

Đề đạt tập hồ sơ này đến Quốc hội, chúng tôi muốn tránh cho dân tộc một chấm đen đồng thời muốn ngăn ngừa một tai hoạ quốc gia khi mà hàng Phật tử chúng tôi thấy cần bảo vệ đúng mức tôn giáo của mình”. Rõ ràng, đối với Phật giáo, họ cũng đã đến lúc không còn chịu đựng được nữa, mà cần phải vùng lên chống lại chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm.

Mặt khác, những thắng lợi trên cả hai mặt trận quân sự và chính trị của ta đã khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ của kẻ thù, cô lập bọn hiếu chiến ngoan cố. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã bị công kích, bị các nhóm thân Mĩ chống Diệm tiếp tục hoạt động chống đối. Cuộc ném bom dinh Độc Lập do hai phi công trong quân đội Sài Gòn thực hiện ngày 27/2/1962 là một minh chứng.

Qua hai năm đấu tranh (1961 – 1962), trên cả hai mặt trận chính trị và quân sự, ta đã từng bước làm cho kế hoạch Stalây – Taylo bị thất bại. Thật vậy, đối với Mĩ – Diệm, ACL được xác định là nội dung cốt lõi của kế hoạch này, được dự kiến hoàn thành trong 18 tháng, với chỉ tiêu đặt ra lúc đầu (giữa 1961) dồn 10 triệu nông dân miền Nam vào 16.000 ACL, tuy đến đầu năm 1962 đã điều chỉnh hạ xuống còn 7.000 ấp, nhưng thực tế đến cuối năm 1962 (thời hạn cuối cùng của kế hoạch) chỉ đạt được 3.900 ấp. Như vậy, chương trình bình định 18 tháng đã căn bản bị thất bại. Các chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận không đạt được kết quả mong muốn. Đây là thất bại bước đầu của chương trình lập ACL. Chính Kennơđi, Tổng thống Mĩ, thừa nhận: “Chúng ta hiện đang ở đường hầm chưa thấy lối ra”. Để xoay chuyển tình thế, bên cạnh việc tiếp tục tăng viện trợ tài chính, vũ khí cho chính quyền và quân đội Sài Gòn, Mĩ – ngụy quyết định kéo dài thời gian thực hiện Kế hoạch Stalây – Taylo thêm 1 năm nữa (1963).

c) Những thắng lợi tiêu biểu của quân dân miền Nam trong năm 1963

* Chiến thắng Ấp Bắc (2/1/1963):

Tháng 11/1962, TW Cục và Bộ Chỉ huy Quân sự Miền tổ chức Hội nghị dân quân, du kích toàn Nam Bộ lần thứ I tại căn cứ Dương Minh Châu*. Qua báo cáo kinh nghiệm của các địa phương, Hội nghị rút ra kết luận: “Muốn đánh bại địch, ta phải kết hợp chặt chẽ ba mặt đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận. Riêng lực lượng chủ lực, phải trụ lại chống càn, không né tránh, đánh cả máy bay trực thăng, xe tăng, thiết giáp. LLVT có chủ động tiến công địch, thọc sâu, trụ lại mới hỗ trợ được cho nhân dân phá ACL có hiệu quả”.

Từ sau Hội nghị trên, LLVT và nhân dân các địa phương trên toàn miền Nam khẩn trương chuẩn bị về tinh thần, vật chất và phương pháp chống càn, quyết tâm đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch, mà tiêu biểu là trận chống càn ở Ấp Bắc ngày 2/1/1963.

Ấp Bắc thuộc chiến trường Quân khu VIII (Trung Nam Bộ), địa bàn đã từng có phong trào Đồng Khởi mạnh mẽ và tiêu biểu, nay cũng là nơi phong trào du kích đang phát triển mạnh. Tại đây, với chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận và phương tiện chiến tranh hiện đại, ở buổi đầu địch làm cho ta lúng túng, gây cho ta những thiệt hại đáng kể, như tháng 3/1962, địch sử dụng máy bay trực thăng, xe M113 đánh trạm giao liên Hương Điền (Kiến Tường), một tiểu đội ta hy sinh; ngày 18/8/1962, ở Tân Hoà Đông, trực thăng vận, thiết xa vận đánh trúng “Công trường” và quân y tỉnh Mỹ Tho, phá nát căn cứ, 20 chiến sỹ hy sinh trong lúc đang chuẩn bị lên chiến trường miền Đông; trận ác chiến Hưng Thạnh (9/1962) để lại cảnh tượng “dưới kênh máu đỏ, trên bờ thây phơi”, Đại đội 2/514 Mỹ Tho giết được 40 địch, nhưng mất đi nhiều chiến sỹ, cộng cả số cơ quan là 52 người, trong đó có 1 Thường vụ Tỉnh uỷ – nhưng trận này để lại một “gợi ý” rất giá trị: 1 Trung đội bật công sự phân tán chống đỡ bị thiệt hại nặng, nhưng 1 Trung đội khác lại tập trung, dựa vào công sự giáng trả địch, diệt 40 tên, hạ 1 máy bay, không hy sinh người nào.

Cái giá phải trả cho những tổn thất ban đầu là khó tránh khỏi. Nhưng, qua thực tế chiến đấu đã giúp quân và dân miền Nam, nhất là quân, dân khu VIII, nắm bắt một cách cụ thể chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, nhanh chóng tổng kết kinh nghiệm để phá cho được các biện pháp chiến thuật, phương tiện chiến tranh mới của địch. Trận chiến Ấp Bắc diễn ra trong bối cảnh đó.

Ấp Bắc là tên gọi của 2 ấp thuộc xã Nhị Bình và xã Dưỡng Điềm (huyện Châu Thành), nằm giáp ấp Tân Bình thuộc xã Tân Phú (huyện Cai Lậy). Trận đánh Ấp Bắc diễn ra trên một phạm vi rộng, nhưng chủ yếu diễn ra ở ấp Tân Bình và Tân Thới thuộc xã Tân Phú.

Trước lúc trận chiến diễn ra, đêm 31/12/1962, tiểu đoàn 514 Mỹ Tho, tiểu đoàn 261 của Quân khu VIII đang tập trung tại Ấp Bắc để huấn luyện cách đánh máy bay trực thăng, xe bọc thép, cách tổ chức bố trí lực lượng, xây dựng hệ thống trận địa trong làng, xã để chiến đấu.

Về phía địch, qua mạng lưới trinh sát, điệp báo, chúng phát hiện được lực lượng của ta đang bố trí thế trận tại Ấp Bắc. Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự Mĩ tại Sài Gòn, đứng đầu là Tướng Hackin, cùng Bộ Tư lệnh Quân lực VNCH cấp tốc vạch kế hoạch tác chiến, điều động lực lượng và phương tiện chiến tranh, tổ chức cuộc hành quân càn quét quy mô lớn mang tên là cuộc hành quân “Đức Thắng” hòng “tiêu diệt và bắt gọn Việt cộng” trong khu vực này.

Nhận được tin này, Khu uỷ Khu VIII, Tỉnh uỷ Mỹ Tho điều động Đại đội 1 tiểu đoàn 261 và đại đội 1 tiểu đoàn 514, một khẩu pháo cối 60 ly và trung đội bộ đội chủ lực huyện Châu Thành, do một tiểu đoàn trưởng chỉ huy thống nhất, khẩn trương chuẩn bị mọi mặt, sẵn sáng đánh thắng cuộc càn quét của địch vào Ấp Bắc.

Để tạo ưu thế tuyệt đối về sức mạnh, địch huy động vào cuộc hành quân 3 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn Bộ binh số 7, một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn Dù, hai đại đội biệt động quân, ba đại đội bảo an, ba đại đội dân vệ biệt kích, 13 xe thiết giáp M113, 13 tàu chiến trên sông, 6 máy bay khu trục B26, 15 máy bay trực thăng (10 CH21; 5 HU1A), 4 máy bay trinh sát L19, 7 máy bay vận tải C47; các trận địa pháo binh của Sư đoàn 7 bố trí trên lộ số 4 là hoả lực chi viện trực tiếp khi cuộc hành quân bắt đầu. Toàn bộ lực lượng hỗn hợp trên với 2.000 quân, đặt dưới sự chỉ huy của Đại tá Bùi Đình Đạm – Tư lệnh Sư đoàn 7, Trung tá Van Pôn – Cố vấn trưởng vùng IV chiến thuật.

Cuộc giao chiến giữa ta và địch kéo dài từ 6 giờ sáng đến 17 giờ ngày 2/1/1963; quân ta đã bám trụ, dựa vào làng chiến đấu, bẻ gãy 5 đợt tiến công của địch; kết quả: ta giết và làm bị thương 450 tên (trong đó có 19 cố vấn Mĩ), bắn rơi và bắn hỏng 8 trực thăng (5 chiếc bị bắn hạ), bắn cháy 3 thiết giáp M113, bắn chìm 1 tàu chiến trên sông, buộc địch phải bỏ dở cuộc càn quét và rút bỏ cuộc hành quân.

Phối hợp nhịp nhàng với quân dân Ấp Bắc, LLVT và nhân dân các huyện Cai Lậy, Châu Thành và thị xã Mỹ Tho đã đồng loạt tiến công và nổi dậy: trưa 2/1/1963, hơn 700 quần chúng thuộc các xã Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Hạnh Trung, Mỹ Phước Tây đã dùng xuồng “tản cư ngược” tiến lên bao vây các trận địa pháo binh địch, ngăn các trận pháo kích vào khu dân cư, đồng thời hỗ trợ cho quần chúng trong khu trù mật Mỹ Phước Tây nổi dậy đấu tranh phá thế kìm kẹp. Cùng ngày, các tổ chức binh vận đã vận động hơn 200 gia đình ngụy quân, ngụy quyền kéo về bệnh viện Mỹ Tho đòi chồng con, đưa yêu sách, làm cho tình hình thêm rối ren, tạo thuận lợi cho quân dân Ấp Bắc chiến đấu thắng lợi.

Đây là lần đầu tiên, trên địa bàn sông nước, chủ lực Quân Giải phóng và LLVT địa phương với quy mô tiểu đoàn đã đánh bại cuộc hành quân càn quét của nguỵ với lực lượng gấp 10 lần, trang bị vũ khí, hoả lực chi viện mạnh, sức cơ động cao, chiến thuật tân kỳ…

Chiến thắng Ấp Bắc đã gây một tiếng vang lớn trong phong trào cách mạng Khu VIII nói riêng và toàn miền Nam nói chung. Nó là mốc son lịch sử quan trọng đánh dấu sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của cuộc kháng chiến; là kết quả của sự vận dụng linh hoạt, đạt yêu cầu cao của 3 mũi giáp công, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận. Đây cũng là lần đầu tiên quân và dân ta đánh bại những hình thức chiến thuật mới nhất của địch (trực thăng vận, thiết xa vận) vốn được coi là “con át chủ bài” trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Chiến thắng Ấp Bắc đánh sụp lòng tin của quân ngụy vào trang bị, vũ khí, kỹ thuật hiện đại của Mĩ, chứng tỏ quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh thắng “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ về quân sự.

“Trận Ấp Bắc (Cai Lậy) chẳng những cổ vũ và đem lại niềm tin mới cho nhân dân ta, khích lệ nhân dân và các LLVT tự vệ ở khắp nơi thi đua chống càn, tiến lên tiêu diệt địch nhiều hơn nữa, mà còn làm cho địch bối rối, kinh hoàng, gây nhiều tiếng vang trên thế giới, nâng cao thanh thế của phong trào cách mạng miền Nam Việt Nam”. Chính giới báo chí Mĩ có mặt tại chỗ coi Ấp Bắc là “trận đánh đẫm máu nhất của Nam Việt Nam trong 4 năm đánh Việt cộng” và “một trong những thất bại tốn kém nhất và nhục nhã nhất của quân đội Nam Việt Nam và của cố vấn Mĩ”. Báo chí của Diệm cũng thừa nhận: “Khỏi cần phải nói cũng có thể hiểu rằng, sau trận Ấp Bắc, Việt cộng lại càng được thế giới bên ngoài kính nể, và bọn phản chiến khắp thế giới càng có lý do để mạt sát cuộc chiến đấu bất lợi của quân lực VNCH”. Ấp Bắc thực sự “gây tiếng vang tai hại lớn tại quốc nội cũng như quốc ngoại và là nguồn gốc gây ra nhiều mâu thuẫn giữa các giới Việt Nam cũng như Hoa Kỳ”.

Tổng Bí thư Lê Duẩn khẳng định: “Sau Ấp Bắc, Mĩ thấy không thắng được ta trong Chiến tranh đặc biệt”.

Nắm bắt kịp tình hình, TW Cục miền Nam liên tiếp phát động trên toàn miền Nam phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” nhằm phá quốc sách ACL, đánh bại ngụy, tiến lên đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ. Sau Ấp Bắc, Quân Giải phóng còn giành được những thắng lợi lớn, như trận tiêu diệt Trung tâm huấn luyện Plâymơrông (1/1963) ở Plâycu, trận chống càn ở Giồng Trôm (7/1963) ở Bến Tre, trận tiêu diệt Chi khu Đầm Dơi – Cái Nước (9/1963), trận đánh Sân bay Sóc Trăng (9/1963), trận Lộc Ninh (10/1963).

Nổi bật nhất là trận tiêu diệt gọn Tiểu đoàn Biệt động quân 32 (Cọp Đen) ở Đường Long – Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương nay) ngày 31/12/1963. Mặc dù địch dùng máy bay ném bom bắn phá dữ dội, kể cả việc sử dụng bom Napan, tiểu đoàn “Cọp Đen” của địch vẫn bị ta xoá sổ hoàn toàn, loại khỏi vòng chiến đấu 250 tên, bắt 58 tên, bắn rơi 3 trực thăng, thu 110 súng các loại và đồ dùng quân sự. Trận Đường Long – Bến Cát là một trận chống càn trong đó quân ta đã giữ thế chủ động, kiên quyết tiến công địch, có cách đánh tốt và đã giành được thắng lợi dòn dã. Đây là trận tiêu diệt gọn 1 Tiểu đoàn ngụy quân đầu tiên trên chiến trường miền Nam từ sau ngày Đồng Khởi, kết thúc thắng lợi năm 1963, mở đầu cho những trận đánh tiêu diệt địch quy mô ngày càng lớn hơn. Tính chung trong năm 1963, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 7,8 vạn tên (trong đó có 600 lính Mĩ).

* Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963:

Trong năm 1963, cùng với phong trào đấu tranh vũ trang, phong trào đấu tranh chính trị cũng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp hơn so với năm 1962. Ở nông thôn và vùng rừng núi, phong trào đấu tranh chính trị phát triển kết hợp với phong trào đấu tranh vũ trang, với số lượt người tham gia đấu tranh cao hơn (trên 23 triêu lượt người), tiếp tục chống địch càn quét, gom dân lập ACL, nhất là phong trào phá ACL. Trong năm 1963, ta đã phá 2.895 ACL (trong tổng số 6.114 ACL), giải phóng 12.000 thôn, ấp. Nhiều cuộc biểu tình, tuần hành lớn kéo từ nông thôn vào đô thị, như ngày 15/4/1963 hơn 10.000 đồng bào Bến Tre đã kéo vào thị xã đấu tranh chống Mĩ – Diệm rải chất độc hoá học, càn quét, khủng bố, dồn dân vào các ACL.

Nổi bật nhất trong phong trào đấu tranh chính trị năm 1963 là phong trào Phật giáo, diễn ra từ đầu tháng 5/1963. Nguyên nhân sâu xa của phong trào này là do chính sách phản dân tộc, chính sách kỳ thị Phật giáo hết sức nặng nề của chính quyền Ngô Đình Diệm qua suốt 9 năm thống trị (1954 – 1963). Tiến thêm một bước nữa trong chính sách kỳ thị Phật giáo, vào dịp lễ Phật đản năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm ra lệnh triệt hạ cờ Phật giáo. Vào lúc 20h30’ ngày 6/5/1963, bức Công điện số 9195 của Phủ Tổng thống Ngô Đình Diệm được chuyển đến chùa Từ Đàm (Huế) với nội dung cấm treo cờ Phật giáo. Công điện triệt hạ cờ Phật lập tức vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của Tăng, Ni, Phật tử miền Nam, trước hết là ở Huế.

Ngay trong đêm 6/5/1963, giới lãnh đạo Phật giáo đã mở ngay một cuộc họp tại chùa Từ Đàm và đi đến thống nhất phản đối Công điện 9195 của chính quyền Diệm qua 3 bức Điện văn: một gửi Phật giáo thế giới; một gửi Ngô Đình Diệm; một gửi cho các đoàn thể Phật giáo. Điện văn gửi Ngô Đình Diệm viết: “Phật giáo rất xúc động nhận được Công điện 9195 không cho treo cờ Phật giáo ngay trong ngày đại lễ Phật đản quốc tế. Chúng tôi không tin rằng quyết định đó xuất phát từ Tổng thống. Thỉnh cầu Tổng thống ra lệnh điều tra và thu hồi Công điện nói trên. Trân trọng”. Điện văn gửi các tổ chức Phật giáo viết: “Cờ Phật giáo bị triệt hạ bởi Công điện 9195. Đã điện Phật giáo Thế giới can thiệp và điện Tổng thống thỉnh cầu đình chỉ. Nhưng các tập đoàn vẫn thông báo các đơn vị và chờ chỉ thị”.

Trước thái độ kiên quyết của giới lãnh đạo Phật giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm buộc phải tạm thời chấp nhận thương lượng. Sáng ngày 7/5/1963, cuộc hội kiến giữa giới lãnh đạo Phật giáo và Ngô Đình Cẩn đã đi đến thống nhất để Phật giáo treo cờ trở lại để đón mừng Phật đản. Nhưng sau khi kết thúc cuộc hội kiến, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cho Trưởng ty Cảnh sát thành phố Huế tập trung lực lượng thi hành việc triệt hạ cờ Phật giáo. 14h ngày 7/5/1963, cảnh sát, mật vụ thành phố Huế được tung ra để triệt hạ cờ Phật giáo, giành giật, xé nát và vứt xuống đường, công khai đánh chửi, hăm dọa bắt và bỏ tù những tăng ni Phật tử có hành động chống đối. Không chỉ cờ Phật giáo, mà tất cả những chiếc đèn lồng nếu có dấu hiệu của Phật giáo thì cũng chung số phận.

Hành động thô bạo của chính quyền Ngô Đình Diệm đã gây nên phản ứng dữ dội trong hàng ngũ Tăng, Ni, Phật tử Huế. Quần chúng Phật tử đã xuống đường kéo đến tỉnh toà yêu cầu giải quyết. Khí thế của quần chúng Phật tử làm cho “phố phường như bừng dậy trong một cuộc động quân. Khắp các đường phố, từ trong thành, Đông Ba, Gia Hội, từng đoàn người lũ lượt kéo qua cầu Trường Tiền. Từ Vĩ Dạ lên, từ trên ga xuống, phía Kho Rèn, An Cựu về, dân thị xã và vùng phụ cận đổ về phía tỉnh đường đông nghịt cả người, đông một cách đáng sợ, như cuồng phong tới, như bão tố lên”. Trước áp lực mạnh mẽ của tăng ni Phật tử, Tỉnh trưởng Thừa Thiên buộc phải nhượng bộ bằng việc tuyên bố chấp nhận cờ Phật giáo được treo trở lại như cũ để đón mừng Phật đản.

Tối 7/5/1963, giới lãnh đạo Phật giáo tổ chức một cuộc họp mật tại chùa Từ Đàm và đã đi đến quyết định đoàn rước Phật sáng hôm sau (8/5/1963) từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm “sẽ là một cuộc biểu tình có tổ chức, chính thức mở màn cho cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam dưới hình thức công khai”.

Sáng 8/5/1963, cuộc rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm bắt đầu từ 6h30’. Trên đường đi, quần chúng đã giương cao nhiều biểu ngữ có nội dung tố cáo chính sách bất công, gian ác của chính quyền Ngô Đình Diệm và bày tỏ quyết tâm đấu tranh của mình. Mỗi khẩu hiệu được hô to, nhất là khi đi qua trước Tỉnh toà và cứ thế cho đến khi đoàn rước Phật về đến chùa Từ Đàm.

Tại chùa Từ Đàm, trước lúc cử hành lễ chính thức, giới lãnh đạo Phật giáo đã giải thích từng câu biểu ngữ và cho rằng: “Nguyện vọng của Phật giáo đồ rất chính đáng và có tính chất xây dựng, không chỉ có lợi cho Phật giáo, các tôn giáo khác, mà còn lợi ích cho cả chính phủ nữa” và tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo và đòi thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo.

Theo chương trình đã được loan báo, vào 20h05’ ngày 8/5/1963, Đài Phát thanh Huế sẽ truyền thanh lại buổi lễ Phật đản đã tổ chức tại chùa Từ Đàm lúc sáng. Tuy nhiên đến giờ đó, chương trình truyền thanh đã bị chính quyền huỷ bỏ. Quần chúng Phật tử khắp nơi trong thành phố Huế kéo đến Đài phát thanh đấu tranh. Khoảng 21 giờ, Đài phát thanh Huế đã bị quần chúng bao vây. Khi cuộc đàm phán diễn ra bên trong Đài phát thanh giữa giới lãnh đạo Phật tử và viên Tỉnh trưởng, thì ở bên ngoài, viên Phó Tỉnh trưởng phụ trách Quân sự chỉ huy binh lính, cảnh sát, xe tăng mở cuộc đàn áp. Xe cứu hoả xịt nước, cảnh sát ném lựu đạn cay, trái phá, tiếp đến là xe tăng từ nhiều hướng lao vào đám đông quần chúng Phật tử. Cuộc đàn áp làm nhiều người bị thương và 8 Phật tử (hầu hết ở tuổi thiếu niên) bị thiệt mạng. Một số thi thể bị xe thiết giáp cán vỡ đầu hoặc dập nát mình.

Ngày hôm sau (9/51963), đông đảo quần chúng Phật tử đổ ra đường biểu tình, tố cáo sự tàn bạo của chính quyền Ngô Đình Diệm và yêu cầu giới lãnh đạo Phật giáo tiếp tục cuộc đấu tranh để bảo vệ Đạo pháp.

Sáng 10/5/1963, giới lãnh đạo Phật giáo huy động đông đảo quần chúng Phật tử tập trung về chùa Từ Đàm, tổ chức mít tinh lên án chính quyền Ngô Đình Diệm. Tại cuộc mít tinh, Hoà thượng Thích Tịnh Khiết thay mặt Tổng hội Phật giáo Việt Nam công bố “Bản Tuyên ngôn của tăng, tín đồ Phật giáo Việt Nam”, trong đó đưa ra 5 nguyện vọng khẩn thiết đòi chính quyền Ngô Đình Diệm phải giải quyết:

“1) Yêu cầu Chính phủ Việt Nam cộng hoà thu hồi vĩnh viễn Công điện triệt giáo kỳ của Phật giáo.

2) Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một quy chế đặc biệt như các Hội truyền giáo Thiên Chúa đã được ghi trong Dụ số 10.

3) Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo.

4) Yêu cầu cho tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo.

5) Yêu cầu Chính phủ phải đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ bị giết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bồi đúng mức”.

Tuyên ngôn khẳng định quyết tâm đấu tranh của tăng, tín đồ Phật giáo Việt Nam: “Chúng tôi sẵn sàng hy sinh cho đến lúc nào những nguyện vọng hợp lý trên đây được thực hiện”.

Vụ đàn áp đẫm máu của chính quyền Ngô Đình Diệm ở Huế đã gây ra một phản ứng mạnh mẽ khắp nơi trong cả nước và trên thế giới. Ngày 9/5/1963, giới lãnh đạo Phật giáo tại Sài Gòn lên tiếng vạch trần những tội ác của chính quyền Ngô Đình Diệm trong suốt 9 năm thống trị, rằng “Phật tử chúng ta (cả xuất gia và tại gia) có nơi bị chôn sống, bị vu khống, bị tù đày, bị thiên cư, bị nhục mạ, ngày nay lại thêm một cái tát đau đớn nữa là lá cờ Phật giáo quốc tế – linh hồn của Phật giáo – bị huỷ bỏ ngay ngày kỷ niệm đấng Giáo chủ của chúng ta, đến nỗi cuộc hy sinh vì đạo đã phải diễn ra tại Huế”, đồng thời kêu gọi “toàn thể Phật giáo đồ, không phân biệt xuất gia hay tại gia, người Việt hay ngoại kiều, hễ ai còn nhiệt tâm vì đạo, chúng ta hãy tự bình tĩnh, luôn luôn muôn người như một, sẵn sàng bảo vệ đạo, chết vì đạo”.

Ngày 14/5/1963, Mặt trận DTGPMNVN ra tuyên bố: “Cuộc đàn áp đẫm máu của chính quyền phát xít Mĩ – Diệm đối với đồng bào biểu tình tay không ngày 8/5 ở Huế là một hành động tội ác tày trời không thể tha thứ được đối với nhân dân ta nói chung và đối với đồng bào theo đạo Phật nói riêng… Cuộc đàn áp đẫm máu lần này đã bóc trần lời của Mĩ – Diệm vẫn thường vỗ ngực tự xưng là hữu thần, là tôn trọng tự do tín ngưỡng, và nhất định nó sẽ càng nung nấu thêm lòng căm thù và chí kiên quyết tiêu diệt chúng của tín đồ các tôn giáo ở miền Nam Việt Nam”. Bản Tuyên bố ủng hộ 5 nguyện vọng đã nêu trong Bản Tuyên ngôn ngày 10/5/1963 của tăng, tín đồ Phật giáo miền Nam. Xã luận báo Nhân Dân ngày 15/5/1963 khẳng định: “Cuộc đấu tranh của đồng bào theo đạo Phật và các tầng lớp đồng bào khác ở Huế là một cuộc đấu tranh chính nghĩa, được nhân dân cả nước ủng hộ. Nhân dân miền Bắc vô cùng khâm phục tinh thần đấu tranh bất khuất của đồng bào Huế được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi ở miền Nam. Chúng ta tin chắc cuộc đấu tranh bền bỉ và anh dũng của đồng bào Huế và ở toàn miền Nam mặc dù phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng”.

Tại Sài Gòn, ngày 15/5/1963, Ngô Đình Diệm tiếp đoàn đại biểu Phật giáo. Cuộc tiếp kéo dài hơn 3 tiếng đồng hồ, nhưng không một nguyện vọng nào của Phật giáo được giải quyết. Ngược lại, Ngô Đình Diệm cho rằng, thủ phạm tại Đài phát thanh Huế chính là cộng sản.

Do chính quyền Ngô Đình Diệm không chịu giải quyết những nguyện vọng của Phật giáo, từ cuối tháng 5, đầu tháng 6/1963, cuộc đấu tranh của tăng, tín đồ Phật giáo miền Nam chuyển sang một bước phát triển mới. Ngày 30/5/1963, cuộc tuyệt thực của giới lãnh đạo Phật giáo được tiến hành trên toàn miền Nam. Sáng ngày 1/6/1963, khi cuộc tuyệt thực sắp chấm dứt, song 5 nguyện vọng của Phật giáo vẫn không được chính quyền Ngô Đình Diệm thoả mãn, quần chúng Phật tử hết sức công phẫn, từ chùa Từ Đàm và chùa Diệu Đế, họ kéo về Tỉnh toà biểu tình, đưa kiến nghị, khẳng định quyết tâm “đồng lòng cùng sống cùng chết dẫu một mất một còn cũng cương quyết đấu tranh cho đến cùng”. Sau đó đoàn người về chùa Từ Đàm tiếp tục cuộc tuyệt thực thêm 24 giờ đồng hồ nữa.

Ngày 3/6/1963, 500 sinh viên Phật tử Huế biểu tình trước trụ sở “Đại biểu Chính phủ” miền Bắc Trung nguyên Trung phần. Cuộc biểu tình đã bị cảnh sát Diệm đàn áp và giải tán bằng hơi cay. Cũng trong ngày 3/6/1963, khi quần chúng Phật tử trên đường đến chùa Từ Đàm, họ bị LLVT của Diệm thẳng tay đàn áp ở cầu Bến Ngự. Chúng ném lựu đạn cay, lựu đạn khói vào đám đông, thả chó béc-giê cắn xé đồng bào, tiếp theo là hàng loạt chai axit ném tới tấp vào đoàn người tay không. Cuộc đàn áp này làm 142 người bị thương, trong đó 49 người bị thương nặng phải vào Bệnh viện TW Huế điều trị, 35 người khác bị bắt. Cùng với đàn áp, chính quyền Diệm ngấm ngầm bắt cóc, thủ tiêu tăng, ni, Phật tử. Tại Huế, chính quyền Diệm phong toả chùa Từ Đàm, xúi giục các gia đình có con em tử nạn trong vụ đàn áp tại Đài phát thanh Huế rút tên khỏi danh sách Thánh tử đạo. Ngày 8/6/1963, Trần Lệ Xuân ra Thông cáo lên án Phật giáo.

Trước tình thế đó, giới lãnh đạo Phật giáo buộc phải tiếp tục cuộc đấu tranh và đưa nó lên một mức cao hơn. Ngày 11/6/1963, tại ngã tư đường Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu và CMT8) Sài Gòn, Hoà thượng Thích Quảng Đức đã anh dũng tự thiêu trước sự chứng kiến của hàng chục ngàn tăng, ni, Phật tử, cùng những quan sát viên và báo chí quốc tế. Cái chết của Thích Quảng Đức có một ý nghĩa to lớn, chuyển cuộc đấu tranh Phật giáo sang một thế mới, trên cả hai bình diện quốc tế và trong nước: “Cuộc hy sinh phi thường và dũng cảm của Hoà thượng Thích Quảng Đức, hình ảnh cụ ngồi thẳng như tượng đá trong ngọn lửa rực hồng đã nhanh chóng như một làn sóng điện làm sôi nổi dư luận trong cả nước Việt Nam và trên thế giới. Ảnh vị Hoà thượng Việt Nam Thích Quảng Đức ngồi trong ngọn lửa được đăng trên hầu hết khắp các báo khắp năm châu, với những dòng chữ nói lên sự khâm phục”.

Lo sợ một sự bùng nổ lớn, chính quyền Ngô Đình Diệm vội vã ký với giới lãnh đạo Phật giáo một Thông cáo chung vào 2 giờ sáng ngày 16/6/1963. Nội dung Thông cáo chung về cơ bản thoả mãn được 5 nguyện vọng mà giới lãnh đạo Phật giáo đã đề ra trong Bản Tuyên ngôn 10/5/1963. Mặc dầu vậy, sáng ngày 16/6/1963, 700.000 người dân Sài Gòn đổ ra đường phố, kéo về chùa Xá Lợi, nơi đặt thi hài Thích Quảng Đức. Cuộc xô xát giữa quần chúng và lực lượng cảnh sát đặc biệt của Diệm xảy ra ở ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Thanh Giản. “Đây là cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt nhất ở Sài Gòn trong mấy năm nay. Nó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chế độ độc tài phát xít Mĩ – Diệm, đẩy chúng vào tình thế bị cô lập hơn bao giờ hết”.

Thực ra đối với chính quyền Ngô Đình Diệm, việc ký kết Thông cáo chung chỉ là một sự nhượng bộ tạm thời để chuẩn bị cho một cuộc đàn áp đại quy mô hơn nhằm đè bẹp phong trào. Điện mật mang số 1342/VP/TT ngày 19/6/1963 của Văn phòng Phủ Tổng thống đánh đi cho “Đại biểu Chính phủ” các miền, Tư lệnh vùng, nguyên văn như sau: “Để tạm thời làm dịu tình hình và khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn tăng ni và Phật giáo phản động, Tổng thống và ông Cố vấn ra lệnh tạm thời nhún nhường họ. Các nơi hãy theo đúng chủ trương trên và đợi lệnh. Mọi kế hoạch đối phó thích nghi sẽ gửi đến sau. Ngay từ bây giờ hãy chuẩn bị dư luận cho giai đoạn tấn công mới. Hãy theo dõi và điều tra thanh trừng những phần tử Phật giáo bất mãn và trình thượng cấp kể cả sĩ quan và công chức cao cấp”. Trong một cuộc họp của 18 tướng tá vào đầu tháng 7/1963, Ngô Đình Nhu tuyên bố: “Nếu chính phủ này không giải quyết vấn đề Phật giáo, nó sẽ bị lật đổ vì một cuộc đảo chính quân sự”. Theo Nhu “bất cứ chính phủ nào thay thế chính phủ này trước hết phải đập tan những người Phật giáo”.

Đêm 20, rạng ngày 21/8/1963, chính quyền Ngô Đình Diệm cho thực hiện “Kế hoạch nước lũ”, tấn công đồng loạt hầu hết các ngôi chùa được làm cơ sở đấu tranh trên khắp miền Nam. Các chùa Ấn Quang, Xá Lợi (Sài Gòn), Từ Đàm, Diệu Đế (Huế).v.v. bị lực lượng Diệm tấn công dữ dội. Cuộc kháng cự của tăng, ni, Phật tử diễn ra rất quyết liệt từ nửa đêm cho đến gần sáng, lực lượng Diệm mới phá vỡ được các vòng đai phòng thủ để tiến vào bên trong các chùa. Theo số liệu của chính quyền Ngô Đình Diệm, số tăng, ni, Phật tử bị bắt trong đêm đồng loạt tấn công nói trên chỉ tính riêng Sài Gòn và Huế lên tới 1.323 người.

Cùng với “Kế hoạch nước lũ”, Ngô Đình Diệm đọc “Tuyên cáo” và ban hành lệnh giới nghiêm công khai đặt miền Nam dưới sự cai trị của chế độ quân phiệt. Sắc lệnh giới nghiêm cho phép quân đội có quyền “xét các tư gia bất cứ giờ nào, bắt giữ những người xét có hại cho an ninh công cộng. Tất cả mọi sự vi phạm trật tự công cộng đều thuộc thẩm quyền của Toà án Quân sự”.

Bằng tất cả các biện pháp trên đây chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn không thể nào dập tắt được phong trào. Thật vậy, sau cuộc tấn công đồng loạt các chùa, phong trào không những không bị đè bẹp mà còn phát triển sâu rộng trong hầu hết các tầng lớp nhân dân. Liền sau “Kế hoạch nước lũ”, ngày 22/8/1963, Mặt trận DTGPMNVN ra tuyên bố chỉ rõ: “Điều quan trọng bậc nhất hiện nay là tín đồ Phật giáo cũng nhân dân các đô thị kiên quyết giữ vững tinh thần, giữ vững đội ngũ, giữ vững đấu tranh… Tinh thần bất khuất trước sau vẫn là võ khí bất khả chiến thắng của chúng ta. Với ý chí và tinh thần ấy, chúng ta sẽ làm cho Mĩ – Diệm bị thất bại nhục nhã”.

Những ngày sau 21/8/1963, cả thành phố Sài Gòn rung động trước sự phát triển của phong trào. Nhiều Bộ trưởng, Khoa trưởng, Giáo sư đại học từ chức. Ngày 22/8/1963, một nhóm giáo chức Sài Gòn rải truyền đơn lên án chính quyền Ngô Đình Diệm tấn công chùa và kêu gọi trí thức vùng dậy đấu tranh: “Chúng ta phải làm gì trong khi khắp nơi đồng nghiệp của chúng ta thẳng thừng từ bỏ chức vụ để đòi hỏi sự giải quyết vấn đề kỳ thị tôn giáo của chính phủ. Hơn thế nữa, mới đây khoảng 1 giờ đêm 20 rạng ngày 21/8/1963 để xác định tính chất tàn ác, vô nhân đạo, chính phủ Ngô Đình Diệm đã cho quân đội tàn phá tất cả chùa chiền ở thủ đô và toàn quốc, bắt giết các vị tăng ni và các cấp lãnh đạo Phật giáo một cách dã man.

Quý vị nghĩ sao trước lời kêu gọi này?

Chúng tôi đang đợi phản ứng của quý vị, là những người thức giả có nhiệm vụ tiên phong trong giai đoạn đấu tranh này”.

Về phía sinh viên, ngày 24/8/1963, Uỷ ban Chỉ đạo sinh viên và học sinh được thành lập. Uỷ ban này “tuyên bố bãi khoá, nghỉ học để đấu tranh cho tự do tín ngưỡng”. Cùng ngày này, tại trường Đại học Khoa học, 1.200 sinh viên đến trường để thi vào năm dự bị, nhưng không ai chịu vào phòng thi, họ xé phiếu báo danh, hô các khẩu hiệu: “Đả đảo Chính phủ” và hô hào bãi khoá. Tại trường Đại học Dược khoa, 700 sinh viên đến trường nhưng không chịu vào lớp. Truyền đơn của Uỷ ban Liên phái bảo vệ Phật giáo dán trên bảng đen kêu gọi đình công, bãi thị, bãi khoá để đấu tranh bảo vệ sự sống còn của Dân tộc và Đạo pháp. Tại trường Đại học Y và Nha khoa, sinh viên xông vào phòng Hội đồng xé đề thi làm lộ đề thi môn toán. Tại trường Đại học Luật khoa, có trên 1.200 sinh viên họp mít tinh lên án chính quyền Ngô Đình Diệm và kêu gọi bãi khoá để đấu tranh. Để đẩy lùi cao trào nổi dậy của sinh viên, chính quyền Ngô Đình Diệm ra lệnh đóng cửa các trường Đại học và Cao đẳng, lùng bắt cán bộ chỉ đạo phong trào.

Tuy vậy, sáng ngày 25/8/1963, bất chấp lệnh giới nghiêm của chính quyền Diệm, thanh niên, học sinh, sinh viên Sài Gòn từ nhiều hướng đổ về trước chợ Bến Thành tổ chức biểu tình lên án chính quyền Ngô Đình Diệm. Đông đảo đồng bào từ trong chợ đổ ra đường hưởng ứng cuộc biểu tình. Cuộc đàn áp diễn ra. Thanh niên, sinh viên, học sinh đã chống trả quyết liệt. Cảnh sát Diệm đã bắn vào đoàn biểu tình, nữ sinh Quách Thị Trang hy sinh, và có khoảng 2.000 nam nữ sinh viên, học sinh bị bắt đưa về giam tại “Trung tâm huấn luyện Quang Trung”.

Tại Huế, các trường Đại học đã hoàn toàn đóng cửa sau quyết định bãi khoá của sinh viên và sự từ chức của toàn thể Giáo sư vào giữa tháng 8/1963. Sau đêm tấn công chùa, sân vận động thành phố đã biến thành một trại giam khổng lồ để giam giữ sinh viên và học sinh.

Ngày 28/8/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời tuyên bố nghiêm khắc lên án chính quyền Diệm đánh phá chùa, đàn áp và bắt bớ tăng, ni, Phật tử và khủng bố giáo sư, sinh viên, học sinh miền Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tội ác của chúng, trời đất không thể dung. Hành động hung tàn của chúng, nhân dân ta đều căm giận. Cả thế giới đều lên tiếng phản đối, nhân dân tiến bộ Mĩ cũng tỏ lòng bất bình”. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “đồng bào miền Nam ta đoàn kết nhất trí, không phân biệt sĩ nông công thương, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, kiên quyết đấu tranh để giành lại tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng”.

Đầu tháng 9/1963, học sinh các trường Võ Trường Toản, Trung học Kỹ thuật Cao Thắng, Chu Văn An,…bãi khoá, biểu tình phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm tấn công chùa. Cảnh sát chiến đấu được huy động tới bao vây và đàn áp. Cuộc chiến đấu của học sinh diễn ra hết sức mãnh liệt. Học sinh đã dùng búa, bàn ghế và các dụng cụ có sẵn của nhà trường chống lại cảnh sát. Ở trường Chu Văn An, cảnh sát Diệm được huy động thêm lực lượng nhưng đến đợt thứ ba mới đàn áp được. Có tới 1.200 học sinh bị bắt đưa về trại giam An Nhơn ở Gò Vấp.

Cùng với phong trào đấu tranh mãnh liệt của quần chúng, nhất là phong trào HSSV, một số nhà sư trong giới lãnh đạo Phật giáo thoát được cuộc khủng bố, hoặc bị quản thúc vẫn tiếp tục bí mật hoạt động lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi trả tự do cho tăng ni, Phật tử, giáo sư, HSSV bị bắt. Nhiều thư của giới lãnh đạo Phật giáo bí mật gửi tới Tổng thư ký LHQ và Phái đoàn điều tra LHQ khi phái đoàn này đến miền Nam.

Trong điều kiện lưới mật vụ cũng như lực lượng chống biểu tình của chính quyền Diệm giăng ra dày đặc, trong phong trào quần chúng xuất hiện những hình thức đấu tranh mới, như các bà mẹ đã lấy bong bóng kết theo các biểu ngữ mang nội dung chống Diệm thả lên không trung; hoặc là những tấm áp phích kí hoạ mô tả chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm; hoặc ở chợ Bến Thành có hình thức thả khỉ mang tên những anh em gia đình họ Ngô,… Trong tháng 10/1963, các nhà sư vẫn tiếp tục tự thiêu để phản đối Diệm (nhà sư Thích Nguyên Hương tự thiêu trước chợ Bến Thành 5/10/1963; nhà sư Thích Thiện Mĩ tự thiêu trước nhà thờ Đức Bà 27/10/1963).

Như vậy, cùng với phong trào đấu tranh quân sự ở nông thôn đồng bằng và miền núi trong năm 1963, khởi đầu là Ấp Bắc (2/1/1963); phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị, nhất là Sài Gòn và Huế, diễn ra hết sức quyết liệt, phối hợp nhịp nhàng với phong trào đấu tranh quân sự. Bị kẹp giữa hai gọng kìm chính trị và quân sự, mâu thuẫn nội bộ chính quyền Diệm, nhất là mâu thuẫn Mĩ – Diệm phát triển đến đỉnh cao, không thể nào khắc phục được. Trong cái “thế chẳng đặng đừng”, Nhà Trắng buộc phải thực hiện chính sách “thay ngựa giữa dòng”, ủng hộ nhóm tướng lĩnh trong quân đội Sài Gòn do Dương Văn Minh cầm đầu làm cuộc đảo chính ngày 1/11/1963, lật đổ chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm. Nền “Đệ Nhất cộng hoà” với học thuyết “Cần lao nhân vị” do Mĩ dày công xây dựng trong suốt 9 năm (1954 – 1963) bị sụp đổ. Kế hoạch Stalây – Taylo nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng với “quốc sách ACL” của Mĩ – Diệm bị phá sản.

Về ý nghĩa của những thắng lợi của cách mạng miền Nam trong năm 1963 trên mặt trận chính trị, Tổng Bí thư Lê Duẩn viết: “Cả trong thành thị cũng dấy lên những làn sóng cách mạng quyết liệt, làm rối loạn hậu phương của địch, làm lung lay tận gốc rễ chế độ bù nhìn. Hoang mang trước sự lớn mạnh và thế tiến công của cách mạng, đế quốc Mĩ buộc phải thay đổi tay sai, phế bỏ Ngô Đình Diệm hòng cải thiện tình hình chính trị và quân sự để cứu vãn thất bại. Song Mĩ đã phạm phải sai lầm. Sau sự sụp đổ của Diệm, chiến tranh cách mạng đã phát triển lên một bước mới”.

d) Sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”

Trước sự thất bại nặng nề của Kế hoạch Stalây – Taylo, Mĩ vẫn ngoan cố bám lấy miền Nam. Sau khi lên thay Kennơđi (bị ám sát 22/11/1963), Giônxơn tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh, đưa cuộc “Chiến tranh đặc biệt” lên đến đỉnh cao. Ngày 24/11/1963 trên cương vị mới, Giônxơn triệu tập cuộc họp các cố vấn cấp cao về Việt Nam, khẳng định tiếp tục theo đuổi các chính sách và những hành động mà Mĩ đã cam kết với miền Nam Việt Nam để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh. Theo Giônxơn, hành động trước mắt của Mĩ là gia tăng các hoạt động quân sự; hoạt động quân sự phải được ưu tiên hơn so với “những cải cách xã hội” mà Mĩ đang triển khai ở miền Nam Việt Nam.

Chuẩn bị cho nỗ lực chiến tranh mới của Mĩ, tháng 12/1963, Giônxơn cử một phái đoàn do Mac Namara dẫn đầu đến Sài Gòn để xem xét tình hình tại chỗ, đề xuất những biện pháp mới nhằm giành thắng lợi. Ngày 21/12/1963, sau khi trở về Mĩ, Mac Namara trình lên Giônxơn báo cáo mang tên “Tình hình Việt Nam”. Theo Mac Namara, đến cuối 1963, “Việt cộng kiểm soát được một tỷ lệ dân số rất cao ở một số tỉnh then chốt, đặc biệt là các tỉnh ở ngay phía Nam và phía Tây Sài Gòn… Tình hình rất rắc rối. Chiều hướng hiện nay, trừ phi có sự thay đổi trong hai ba tháng tới, nếu không may mắn lắm, sẽ dẫn tới việc trung lập hoá, có khả năng nhiều hơn là Nam Việt Nam trở thành một quốc gia dưới quyền kiểm soát của cộng sản”. Để ngăn chặn chiều hướng này và cải thiện tình hình ảm đạm đang bao phủ VNCH, Mac Namara đề xuất 3 biện pháp:

1) Yêu cầu chính phủ Sài Gòn bố trí lại toàn bộ lực lượng quân đội theo hướng bảo đảm cho các tỉnh xung quanh Sài Gòn và vùng châu thổ có quân số tăng gấp đôi.

2) Tăng nhân viên quân sự, nhân viên phái đoàn hành quân Mĩ (USOM) đến mức số người Mĩ có ở Nam Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng đem lại cho các cơ quan điều hành chiến tranh của Mĩ sự đánh giá độc lập, đáng tin cậy về các mặt hoạt động trên chiến trường.

3) Chuẩn bị cho các chương trình bình định thiết thực, đồng thời nỗ lực để đảm bảo an ninh cho các vùng do chính phủ VNCH hiện còn đang kiểm soát và sau đó, mở rộng dần ra vùng gần đó.

Những biện pháp do Mac Namara đề xuất được Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mĩ đồng ý. Trong thư gửi cho Mac Namara ngày 22/1/1964, tướng Taylo, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân cho rằng, Mĩ “cần mở rộng cuộc chiến tranh sang oanh tạc miền Bắc Việt Nam bằng không quân Mĩ và chuyển từ huấn luyện người Nam Việt Nam sang tiến hành cả ở hai miền Bắc và Nam Việt Nam bằng lực lượng chiến đấu Mĩ”.

Từ ngày 8 – 12/3/1964, Mac Namara và Taylo lại sang Sài Gòn một lần nữa. Trở lại Mĩ ngày 16/3/1964, Mac Namara trình lên Tổng thống Giônxơn báo cáo về tình hình Nam Việt Nam và những biện pháp nhằm thay đổi chiều hướng cuộc chiến tranh. Báo cáo được Giônxơn phê chuẩn ngày 17/3/1964, gồm những nội dung chủ yếu sau:

1) Sẵn sàng cung cấp viện trợ và hỗ trợ cho Nam Việt Nam chừng nào còn cần thiết.

2) Ủng hộ Chính phủ Khánh chống lại bất kỳ cuộc đảo chính nào sau này.

3) Ủng hộ chương trình động viên quốc gia (kể cả việc thông qua một đạo luật về quân dịch), đưa Nam Việt Nam vào tình thế chiến tranh.

4) Giúp đỡ chính quyền Sài Gòn tăng quân số (quân chính quy và nửa chính quy) lên ít nhất 50 vạn người.

5) Giúp đỡ đạo tạo đội ngũ cán bộ hành chính, dân sự đông đảo hoạt động ở cấp tỉnh, quận và thôn ấp.

6) Cung cấp cho quân ngụy 25 máy bay A14 thay thế cho các máy bay T28, các xe bọc thép M113, tàu tuần tra trên sông và 5 – 10 triệu đô la cho các khoản trang bị khác.

7) Cho phép máy bay Mĩ tiếp tục bay do thám ở độ cao các khu vực biên giới Nam Việt Nam, cho phép “truy kích ngay lập tức” và tiến hành các hoạt động trên bộ của Nam Việt Nam ở biên giới Lào nhằm kiểm soát biên giới.

8) Chuẩn bị ngay lập tức để khi báo trước 72 tiếng đồng hồ là có thể tiến hành các hoạt động quy mô lớn “kiểm soát biên giới” ở Lào, Campuchia và các hoạt động trả đũa chống Bắc Việt Nam, khi được báo trước 30 ngày là có thể tiến hành chương trình “gây sức ép quân sự công khai từng bước một” chống Bắc Việt Nam.

Kế hoạch bao gồm các biện pháp trên đây do Mac Namara soạn thảo và được Giônxơn chuẩn y được gọi là “Kế hoạch Giônxơn – Mac Namara” và bắt đầu thức hiện từ ngày 1/4/1964, gồm 2 bước chính:

Bước 1, từ 1/4/1964 – 31/12/1965 (2 năm): Bình định có trọng điểm ở các vùng chiến thuật.

Bước 2, bắt đầu từ 1966, tiến công vào các vùng căn cứ, tiêu diệt các đơn vị chủ lực quân giải phóng, phá huỷ các cơ sở quân sự của ta.

Nhằm biến kế hoạch này thành hiện thực, Giônxơn thay đổi toàn bộ giới lãnh đạo cao cấp Mĩ ở Nam Việt Nam. Tướng Uyliam Oétmolen được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh các lực lượng quân sự Mĩ ở Nam Việt Nam thay cho Hackin; Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Măcxoen – Taylo thay Cabôtlôt làm Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn. Lực lượng cố vấn, yểm trợ Mĩ được tăng cường từ 22.400 người (1963) lên 26.200 người (1964); quân ngụy tăng từ 417.000 người (1963) lên tới 561.000 người (1964). Trang bị kỹ thuật cũng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng: số máy bay từ 627 chiếc (1963) lên 989 chiếc (1964); xe cơ giới từ 582 chiếc (1963) lên 732 chiếc (1964); pháo từ 248 khẩu (1963) lên 415 khẩu (1964).

Với lực lượng được tăng cường cả về chỉ huy, quân số và trang bị kỹ thuật, Mĩ tập trung bình định “có trọng điểm” những vùng bị du kích kiểm soát, góp phần cải thiện tình hình tồi tệ của quân ngụy, hòng giành lại thế chủ động.

Về phía ta, trước những âm mưu và thủ đoạn mới của Mĩ, tháng 12/1963, BCHTW Đảng tiến hành họp Hội nghị lần thứ 9. Trên cơ sở phân tích, đánh giá toàn bộ diễn biến của tình hình chiến trường, tình hình trong nước và quốc tế, Hội nghị đã chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: “Động viên toàn Đảng, toàn dân vượt mọi khó khăn và trên cơ sở phát triển mạnh mẽ hơn nữa ý thức giác ngộ chính trị của nhân dân, ra sức phấn đấu xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang, (nhất là LLVT), làm thay đổi mau chóng lực lượng so sánh giữa ta và địch theo chiều hướng có lợi cho ta; tích cực xây dựng và mở rộng căn cứ địa, đặc biệt là ở những địa bàn chiến lược và cơ động của quân chủ lực; tiến lên đánh tiêu diệt và làm tan rã từng bộ phận quân đội địch; phá phần lớn các ACL, làm chủ vùng rừng núi và phần lớn xã thôn vùng đồng bằng, tạo điều kiện cho phong trào quần chúng đô thị nổi dậy mạnh mẽ, đẩy chế độ của Mĩ và tay sai đến chỗ khủng hoảng sâu sắc hơn và mau suy sụp hơn, làm cho phong trào giành chủ động về chiến lược tạo ra thời cơ tốt để giành những thắng lợi quyết định về ta”.

Thực hiện nhiệm vụ trên đây, Hội nghị chỉ ra 2 nội dung chủ yếu, phải quyết tâm đạt cho được nhằm làm thất bại âm mưu “kiểm soát nhân dân bằng ACL và tiêu diệt LLVT ta bằng lực lượng quân sự mạnh”. Đó là:

1) Làm thất bại mức độ gom dân lập ACL của địch, phá phần lớn các ACL địch đã làm được, bảo đảm giành nhân tài, vật lực cho cách mạng, làm chủ phần lớn nông thôn, rừng núi.

2) Tiêu diệt sinh lực địch, làm tan rã từng bộ phận quân đội địch, tạo điều kiện làm tan rã lực lượng quân sự, chỗ dựa của Mĩ và tay sai.

Tiếp theo, ngày 1/1/1964, Mặt trận DTGPMNVN họp Đại hội lần thứ II, ra lời kêu gọi quân và dân miền Nam “dốc toàn lực, thực hiện đến cùng cuộc kháng chiến toàn diện và trường kỳ chống đế quốc Mĩ xâm lược và tay sai bán nước”.

Thực hiện NQ trên đây và hưởng ứng Lời kêu gọi của Mặt trận; đồng thời lợi dụng sự mâu thuẫn nội bộ địch đang gia tăng; trong 2 năm 1964 – 1965, quân và dân miền Nam đã nỗ lực đẩy mạnh cuộc chiến tranh cách mạng, liên tiếp giành được những thắng lợi có ý nghĩa quyết định.

Trên mặt trận quân sự, ta tiếp tục phát huy thế chủ động tiến công địch ở cả 3 vùng, kể cả những vùng trọng điểm bình định của địch, nổi bật nhất là các chiến thắng Thạnh Phú (Bến Tre, 1/1964); trận tập kích trại sĩ quan Mĩ ở thị xã KonTum (2/2/1964); trận tấn công tiêu diệt Chi khu quân sự Vĩnh Thuận ở Rạch Giá (4/1964); trận tập kích tiêu diệt trại lính đặc biệt của Mĩ ở Plây Côrông (7/1964);… Đặc biệt, thời gian này, được sự hỗ trợ của nhân dân đô thị, các LLVT giải phóng đã tổ chức tiến công địch một các táo bạo trong thành phố, như trận đánh chìm tàu sân bay Cader 15.000 tấn ở Sài Gòn (2/5/1964); đánh tàu chở xăng của Mĩ trên sông Nhà Bè thiêu huỷ 70 vạn lít xăng; đánh sập khách sạn Caraven (8/1964) diệt hàng chục tên Mĩ; đánh khách sạn Brink (12/1964) làm chết và bị thương 68 sĩ quan Mĩ; đánh Sở chỉ huy Mĩ ở Quy Nhơn; đánh sân bay Đà Nẵng phá huỷ 47 máy bay diệt hàng trăm tên Mĩ. Cũng có những trận đánh ở thành phố không thành nhưng gây tiếng vang lớn trong nước và thế giới, như trận đánh nhằm diệt Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Mac Namara tại cầu Công Lý khi ông ta từ Tân Sơn Nhất về dinh Độc Lập do chiến sỹ biệt động 65 Nguyễn Văn Trỗi thực hiện ngày 9/5/1964.

Cuối năm 1964, đầu năm 1965, Quân uỷ Miền chủ trương: “Tập trung chủ lực Miền, cùng với nhân dân và LLVT địa phương mở một đợt hoạt động đánh vận động quy mô tương đối lớn đầu tiên của Miền trong Đông – Xuân 1964 – 1965 tại vùng rừng núi ven biển Đông Nam Bộ”. Nổi bật nhất là trận tiến công ACL Bình Giã (Bà Rịa – Vũng Tàu) từ ngày 5/12/1964 của bộ đội chính quy miền Đông Nam Bộ cùng với bộ đội địa phương và lực lượng dân quân du kích. Sau 6 ngày đêm chiến đấu, quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 tên địch, diệt 37 xe quân sự các loại, bắn rơi và bắn hỏng 37 máy bay. Với mức độ tiêu diệt gọn được 2 tiểu đoàn địch trong 1 trận đánh, “chiến thắng Bình Giã đã đánh dấu bước nhảy vọt rất quan trọng trong quá trình phát triển của chiến tranh giải phóng ở miền Nam, làm thay đổi cục diện chiến tranh, mở đầu thời kỳ tiến công quân sự với quy mô tập trung của Quân Giải phóng miền Nam”.

Cùng với đòn tiến công Bình Giã, ngày 7/12/1964, ở Khu V, quân Giải phóng tiến công tiêu diệt Chi khu An Lão (Bình Định), diệt 168 tên địch, 1 Chi đội M113, làm tan rã 2 đại đội bảo an, 12 trung đội dân vệ, bắn rơi 1 máy bay, thu 300 súng các loại, phá tan hệ thống ACL quanh quận lỵ An Lão, giải phóng 11.000 dân.

Với chiến thắng Bình Giã, An Lão trong tháng 12/1964, quân và dân miền Nam đã đánh bại về cơ bản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ. Tổng Bí thư Lê Duẩn khẳng định: “Kể từ trận Ấp Bắc, Mĩ thấy không thể thắng ta được, đến trận Bình Giã, thì Mĩ thấy sẽ thua ta trong chiến tranh đặc biệt”.

Tiếp theo, trong chiến dịch hè 1965, quân Giải phóng tiếp tục tiến công tiêu diệt nhiều tiểu đoàn chủ lực ngụy, nổi bật là chiến thắng Đồng Xoài ở Bình Phước (6/1965), chiến thắng Ba Gia ở Quảng Ngãi (6/1965). Trận Ba Gia quân Giải phóng đã diệt gọn 1 Chiến đoàn địch gồm 4 tiểu đoàn chủ lực ngụy. Thắng lợi của chiến dịch hè 1965, với trận tiêu diệt điển hình Ba Gia, “đánh dấu bước trưởng thành mới của quân và dân ta, đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ”.

Trên mặt trận đấu tranh chính trị, từ sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, đến giữa năm 1965, nhân dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, rồi cả miền Trung Trung Bộ và Tây Nguyên đã nổi dậy phá ACL, lập chính quyền cách mạng ở nông thôn, hình thành một cao trào nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng. Cùng với sự tan rã từng mảng lớn ACL, hệ thống đồn bốt dân vệ, bảo an trực tiếp kìm kẹp quần chúng cũng tan rã theo. Theo sự thú nhận của đối phương thì: “Trong vòng 3 tháng sau đảo chính, Việt cộng nổi dậy khắp nơi. Tỉnh Kiến Hoà phải rút đi 51 đồn bốt, mất 15 xã. Ở miền Trung từ Phan Thiết trở ra trong vòng 2 tháng sau đảo chính, 2.200 ACL trong tổng số 2.700 ACL hoàn toàn bị tan tác. Tổng số 4.248 ACL ở miền Nam thì có 3.915 ấp bị phá hẳn”. Trong phúc trình gửi Tổng thống Giônxơn ngày 16/3/1964, Mc Namara đưa ra một bức tranh bi thảm, hậu quả của cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm: “Trong số đất đai của 22 tỉnh (trong số 44 tỉnh), Việt cộng kiểm soát tới 50% hoặc nhiều hơn thế: Phước Tuy, Việt cộng kiểm soát 80%; Bình Dương 90%; Hậu Nghĩa 90%; Long An 90%; Định Tường 90%; Kiến Hoà 90%; An Xuyên (Cà Mau) 85%. Quận Mỏ Cày và các xã Định Thuỷ, Bình Khánh, Phước Hiệp, đỏ 100%, trên 900 xã như trường hợp 3 xã này…”. Đến giữa năm 1965, số đồn bốt của địch chỉ còn khoảng 2.900 so với 4.500 trong năm 1963.

Ở đô thị, phong trào đấu tranh chính trị thu hút mọi tầng lớp nhân dân (công nhân, sinh viên, học sinh, tín đồ Phật giáo,…), diễn ra liên tục và rộng khắp (Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn, Hội An, Quảng Trị…). Đầu năm 1964, cuộc đình công của 2.000 công nhân hãng dệt Vinatexco và công nhân xưởng nhuộm Vinatelphico kéo dài 45 ngày, có lúc địch đã huy động 2 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến đến đàn áp; và cuộc biểu tình của 12.000 công nhân Taxi Sài Gòn tháng 5/1964 phản đối Mĩ giết chết 3 bạn đồng nghiệp… Nổi bật nhất là phong trào đấu tranh chống chế độ độc tài quân phiệt Nguyễn Khánh. Ngày 16/8/1964, Nguyễn Khánh cho ra đời “Hiến chương Vũng Tàu”. Với bản hiến chương này, Nguyễn Khánh được phong làm “Chủ tịch VNCH” kiêm Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Hội đồng Quân lực; thực chất là thiết lập chế độ độc tài quân phiệt.

Liền sau khi “Hiến chương Vũng Tàu” ra đời, quần chúng các đô thị đã phản ứng mau lẹ, đầu tiên là ở Huế. Ngày 17/8/1964, sinh viên Huế ra Tuyên ngôn “tố cáo mọi âm mưu phản dân chủ, phản cách mạng, nhằm đưa toàn dân trở lại con đường độc tài, áp bức như chế độ cũ”. Tiếp theo, ngày 20/8/1964, 20.000 tín đồ Phật giáo biểu tình tuần hành qua các đường phố phản đối “Hiến chương Vũng Tàu” ngày 16/8/1964. Sinh viên, học sinh và các giới đồng bào tham gia biểu tình hô to những khẩu hiệu “Đả đảo chế độ độc tài quân phiệt”, “Phản đối Hiến chương ngày 16/8/1964”, “tận diệt Đảng Cần Lao”. Đối với nhân dân Huế, “chính quyền Nguyễn Khánh thoát thai từ Hiến chương 16/8/1964, là cả một sự phỉ báng và nhục mạ nhân dân Việt Nam, cho nên toàn dân đã nhất thiết đứng lên, đòi xoá bỏ vết nhơ ấy trong lịch sử”.

Từ Huế, phong trào chống Khánh đã nhanh chóng lan rộng ra khắp các đô thị miền Nam. Ngày 20/8/1964, hai vạn nhân dân Sài Gòn bao vây dinh Độc Lập, đòi Nguyễn Khánh phải từ chức. Ngày 24/8/1964, ba vạn nhân dân Đà Nẵng tuần hành kết hợp với bãi thị, bãi khoá. Ngày 25/8/1964, hơn 40 vạn sinh viên và nhân dân Sài Gòn lại xuống đường biểu tình chống Mĩ – Khánh, đòi Khánh từ chức. Hơn 3 vạn người đã kéo đến trụ sở Bộ Thông tin và chiếm Đài phát thanh. Ở Huế, ngày 25/8, quần chúng biểu tình chiếm Đài phát thanh hơn 20 phút. Trước tình hình đó, Mĩ – Khánh buộc phải “xuống thang” bằng việc thu hồi “Hiến chương Vũng Tàu”, giải tán “Hội đồng Quân lực” do Mĩ – Khánh lập ra, thay vào đó là một “Tam đầu chế” gồm Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm với đầy rẫy mâu thuẫn. Điểm nổi bật trong phong trào đô thị chống chính quyền Nguyễn Khánh là sự xuất hiện của “Hội đồng nhân dân cứu quốc” (28/8/1964), một tổ chức ly khai chính quyền TW Sài Gòn. Đây là một tổ chức chính trị đặc biệt trong phong trào đô thị miền Nam từ trước tới nay. Hội đồng công khai đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tập đoàn quân phiệt Nguyễn Khánh và dư đảng Cần Lao. Hội đồng ra báo Tranh Đấu làm cơ quan ngôn luận chính thức của mình. Báo tranh đấu đã có những bài nêu đích danh những đảng viên Cần Lao và những tội trạng của chúng… Hầu hết các đô thị miền Trung như Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Quảng Ngãi, Tam Kỳ, Hội An, Quảng Trị, “Hội đồng nhân dân cứu quốc” đều được thành lập và nắm quyền kiểm soát, nổi bật nhất là ở Quy Nhơn, trong suốt 1 tuần lễ, học sinh chiếm Đài phát thanh, thị xã Quy Nhơn trở nên rối loạn. Nhân dân tham gia các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh xâm lược của Mĩ, đã hô lớn khẩu hiệu “đòi trả con em cho các làng xã chúng tôi”.

Ngày 21/9/1964, hơn 2 vạn công nhân, lao động, sinh viên, học sinh Sài Gòn tiến hành tổng bãi công, bãi thị, biểu tình đòi bãi bỏ lệnh giới nghiêm, hủy bỏ Sắc lệnh cấm đình công, hội họp, đòi quyền dân sinh, dân chủ, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân hãng dệt Vimitex.

Ngày 25/10/1964, Phan Khắc Sửu được cử giữ chức “Quốc trưởng” và Trần Văn Hương được chọn làm “Thủ tướng”. Vừa mới lên cầm quyền, Trần Văn Hương đã đưa ra đường lối: “Chiến tranh toàn diện phải được thực hiện không những trên mặt trận quân sự mà còn về phương diện chính trị, kinh tế và xã hội nữa để chống lại cộng sản và mưu toan của họ trung lập hoá xứ sở”. Trần Văn Hương còn đề ra việc “bài trừ bè phái”, “chống tinh thần cầu an của công chức”, “thanh niên phải tòng quân”, đặc biệt nhất là “tách chính trị ra khỏi trường học”. Đường lối của Trần Văn Hương thực chất là nhằm bóp chết phong trào đấu tranh của nhân dân, ngăn chặn sinh viên, học sinh, Phật tử đấu tranh chống chính quyền bù nhìn; là bắt thanh niên đi lính nhiều nhất cho Mĩ, triệt hạ các đảng phái đối lập. Và tất nhiên, chính phủ Trần Văn Hương không tránh khỏi mũi nhọn của phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân miền Nam, nổi bật là ở Huế và Sài Gòn.

Ngày 4/1/1965, tại Sài Gòn, sinh viên các trường Đại học Văn khoa, Luật khoa, Y khoa, Mĩ thuật và học sinh nhiều trường trung học tổng bãi khoá và biểu tình phản đối Mĩ và tay sai khủng bố sinh viên, học sinh và đồng bào Phật tử. Trong khi cuộc bãi khoá của sinh viên, học sinh đang diễn ra, hơn 20.000 công nhân, lao động, sinh viên, học sinh và đồng bào Phật tử đã kéo đến “Toà án mặt trận” của Mĩ – Khánh ở bến Bạch Đằng, đấu tranh đòi chúng không được xét xử một cách trái phép sinh viên, học sinh và đồng bào Phật tử yêu nước đang bị giam cầm.

Tại Huế, ngày 7/1/1965, hàng ngàn người tuyệt thực phản đối Trần Văn Hương khủng bố tôn giáo. Nhân dân biểu tình ngồi ở ngã ba cầu Trường Tiền, Bạch Hổ và An Cựu, làm tắc nghẽn giao thông. Phong trào phát triển dẫn đến việc đốt Phòng Thông tin Mĩ ngày 23/1/1965, có tới 2 vạn cuốn sách đã bị đốt cháy, nhân dân đã hô các khẩu hiệu: “Độc lập hay là chết”, “Đả đảo Taylo”, “Mac Namara hãy cút”, “người Mĩ cút đi”, “nước Việt Nam của người Việt Nam”, “Vấn đề Việt Nam phải do người Việt Nam giải quyết”…

Cùng với những cuộc tiến công tiêu diệt địch trên khắp chiến trường, phong trào đấu tranh quyết liệt ở các đô thị đã đẩy nhanh cuộc khủng hoảng của nguỵ quyền Sài Gòn. Chỉ trong vòng 18 tháng, từ tháng 11/1963 đến tháng 6/1965, nguỵ quyền miền Nam đã trải qua 10 cuộc đảo chính lớn nhỏ, 8 lần thay đổi chính phủ.

Trước những chiến thắng to lớn và liên tiếp của phong trào cách mạng miền Nam trên cả 2 mặt trận quân sự và chính trị trong năm 1964 và nửa đầu năm 1965, kế hoạch Giônxơn – Mac Namara bình định có trọng điểm đã thất bại. Lực lượng ngụy quân, ngụy quyền công cụ chủ yếu của “chiến tranh đặc biệt” đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, hệ thống ACL xương sống của chiến tranh đặc biệt đã bị tan vỡ tới 4/5, đô thị mất ổn định không còn là hậu cứ an toàn của chiến tranh đặc biệt nữa.

Để cứu vãn tình thế, Nhà Trắng đã thay đổi chiến lược, chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân viễn chinh Mĩ và các nước thân Mĩ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.

Bình luận về bài viết này